Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ
Thông tin tuyên truyền tháng 10/2024
06-10-2024 21:02

Từ ngày 18 đến 20/8/2024, nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và Phu nhân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm và Phu nhân thăm cấp Nhà nước đến Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Chuyến thăm đã thành công tốt đẹp trên mọi phương diện, góp phần quan trọng thúc đẩy việc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc, có ý nghĩa chiến lược, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới. Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên đã ra Tuyên bố chung về việc tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, thúc đẩy xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc. Chuyến thăm đã đạt được một số kết quả nổi bật: (1) Lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai nước đều khẳng định sự coi trọng quan hệ song phương; đều coi việc ưu tiên phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước là lựa chọn chiến lược; đều khẳng định ủng hộ nhau thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước. Hai bên nhất trí tiếp tục triển khai hiệu quả nhận thức chung cấp cao đã đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng, hai nước trong các chuyến thăm gần đây, tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, thúc đẩy xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc theo định hướng “6 hơn”: tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác an ninh - quốc phòng thực chất hơn, hợp tác thực chất sâu sắc hơn, nền tảng xã hội vững chắc hơn, phối hợp đa phương chặt chẽ hơn và bất đồng được kiểm soát và giải quyết tốt hơn, góp phần đưa quan hệ hai nước đạt nhiều thành quả thực chất hơn nữa, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. (2) Hai bên đã trao đổi về định hướng hợp tác trên các lĩnh vực, trong đó nhất trí tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực chiến lược như ngoại giao, quốc phòng, an ninh; mở rộng hợp tác kết nối giữa sáng kiến “Vành đai con đường” với khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai”…. Hai bên nhất trí tạo thuận lợi về thương mại, mở rộng xuất khẩu các mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc. Hai bên khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp có thực lực, uy tín và công nghệ tiên tiến sang đầu tư tại nước kia và mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực mới như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, phát triển xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo… (3) Hai bên nhất trí lấy năm 2025 là “Năm giao lưu nhân văn Việt - Trung” và cùng tổ chức những chuỗi hoạt động chúc mừng nhân dịp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc. (4) Hai bên tăng cường điều phối, hợp tác đa phương; tăng cường hợp tác trong các cơ chế như Liên hợp quốc, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương… (5) Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích cực giải quyết bất đồng trên biển trên cơ sở tuân thủ nhận thức chung cấp cao, “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, cùng duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực. Hai bên cũng nhất trí tiếp tục phối hợp thực hiện hiệu quả các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền và thỏa thuận liên quan, tăng cường hợp tác tại khu vực biên giới trên bộ Việt Nam - Trung Quốc. Nhân dịp này, các bộ, ngành và địa phương hai nước đã ký kết tổng cộng 16 văn kiện hợp tác trong các lĩnh vực kết nối liên thông, công nghiệp, kiểm nghiệm, kiểm dịch hải quan, y tế, báo chí - truyền thông, hợp tác địa phương và dân sinh.
Từ ngày 18 đến 20/9/2024, đã diễn ra Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII. Với tinh thần làm việc khẩn trương, trách nhiệm, dân chủ, đặc biệt là sự đóng góp rất tâm huyết của các Ủy viên Trung ương Đảng, Hội nghị đã tập trung thảo luận, cho ý kiến về nhiều nội dung quan trọng: về các dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII); báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam; báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng. Dự thảo báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026 - 2030; báo cáo tổng kết thực hiện quy chế bầu cử trong Đảng ban hành kèm theo Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) và dự thảo sửa đổi, bổ sung quy chế bầu cử trong Đảng; dự thảo tổng kết công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) và phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIV). Trung ương cho ý kiến nội dung giới thiệu quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư (khóa XIV), nhiệm kỳ 2026 - 2031; bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIV), nhiệm kỳ 2026 - 2031; báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; báo cáo đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2024, dự toán ngân sách nhà nước năm 2025; kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm quốc gia 2025 - 2027; chủ trương đầu tư toàn tuyến dự án
đường sắt tốc độ cao trên trục bắc - nam; chủ trương thành lập thành phố Huế trực thuộc Trung ương; bầu bổ sung Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII và một số nội dung quan trọng khác. Theo đó, Ban Chấp hành Trung ương đã nghiên cứu, thảo luận, cơ bản tán thành kết cấu và những nội dung chính của dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XIV; phân tích, nhấn mạnh, làm sâu sắc thêm ý nghĩa, chủ đề của Đại hội XIV; khẳng định dự thảo báo cáo chính trị có nhiều nội dung mới, điểm nhấn khác biệt so với Đại hội XIII, mang tầm chiến lược, lịch sử, có tính chất cương lĩnh để thực hiện trong giai đoạn tới; đánh dấu mốc quan trọng đặc biệt cho Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, phù hợp với yêu cầu của thời đại, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam… Ban Chấp hành Trung ương thông qua nội dung cơ bản các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV gồm: Dự thảo báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam; dự thảo báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng trình Đại hội XIV của Đảng; dự thảo báo cáo 5 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026 - 2030. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị căn cứ ý kiến thảo luận của Trung ương, báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị để chỉ đạo các tiểu ban hoàn chỉnh các dự thảo văn kiện trên để lấy ý kiến đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng… Ban Chấp hành Trung ương thống nhất chủ trương đầu tư toàn tuyến Dự án đường sắt tốc độ cao (350km/giờ) trên trục bắc - nam. Giao Ban Cán sự Đảng Chính phủ và Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện hồ sơ để trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV xem xét, quyết định thông qua chủ trương, một số cơ chế, chính sách đặc thù để huy động nguồn lực, thủ tục đầu tư dự án. Tại Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã có bài phát biểu bế mạc, khái quát những vấn đề quan trọng, thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo và gợi mở một số vấn đề để thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện. Trong đó, Văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Ngày 27/9/2024, Đảng ủy Khối các cơ quan (CCQ) tỉnh đã long trọng tổ chức Lễ Kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng bộ Khối CCQ tỉnh Lạng Sơn (27/9/1954 - 27/9/2024) và đón nhận Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ. Đến dự Lễ kỷ niệm có đồng chí Nguyễn Quốc Đoàn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Đoàn Thị Hậu, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; đồng chí Đoàn Thanh Sơn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; các đồng chí nguyên là lãnh đạo chủ chốt của Đảng ủy Khối CCQ tỉnh qua các thời kỳ; lãnh đạo các đảng ủy, chi bộ trực thuộc; lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể cùng 70 đảng viên mới được kết nạp nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng bộ Khối CCQ tỉnh… Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với nhiều cam go, thử thách. Để bảo đảm cuộc kháng chiến thắng lợi, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trong cả nước nói chung và tỉnh Lạng Sơn nói riêng cần phải được tăng cường củng cố. Trên cơ sở báo cáo và đề nghị của Tỉnh ủy Lạng Sơn, ngày 27/9/1954, Ban Thường vụ Liên khu ủy Việt Bắc ban hành Nghị quyết số 101-NQNS/LKVB “Công nhận đề nghị của Tỉnh ủy Lạng Sơn về việc thành lập Đảng uỷ cơ quan Dân, Chính, Đảng xung quanh tỉnh”, theo định hướng chung của Liên khu ủy Việt Bắc, chức năng của Đảng ủy là lãnh đạo công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan của tỉnh về chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, tham gia tuyên truyền, triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh. Từ đó, ngày 27/9/1954 là Ngày thành lập Đảng bộ cơ quan Dân, Chính, Đảng xung quanh tỉnh Lạng Sơn (tiền thân của Đảng bộ Khối CCQ tỉnh Lạng Sơn). Trải qua 70 năm xây dựng, phấn đấu, trưởng thành và phát triển, mặc dù gặp không ít khó khăn, nhiều lần thay đổi tên gọi, sáp nhập, giải thể để phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn lịch sử, song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng bộ Khối CCQ tỉnh không ngừng lớn mạnh và phát triển, khẳng định được vai trò, vị thế của mình và đóng góp quan trọng vào kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của tỉnh. Trong 70 năm qua, Đảng bộ Khối CCQ đã tiến hành 14 kỳ đại hội, mỗi đại hội đều đánh dấu sự trưởng thành, phát triển về mọi mặt. Hiện nay, Đảng bộ Khối CCQ tỉnh gồm 65 tổ chức cơ sở đảng với hơn 4.300 đảng viên. Phát biểu tại lễ kỷ niệm, đồng chí Nguyễn Quốc Đoàn, Bí thư Tỉnh ủy đã ghi nhận, biểu dương những thành tựu quan trọng mà Đảng bộ Khối CCQ tỉnh đã đạt được trong 70 năm xây dựng và phát triển. Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị thời gian tới, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đề nghị: các cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng trong toàn Đảng bộ Khối CCQ tiếp tục đổi mới, sáng tạo, đoàn kết, nỗ lực hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, xây dựng Đảng bộ Khối CCQ tỉnh trong sạch, vững mạnh. Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối CCQ tỉnh tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, chủ động triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và của Đảng bộ Khối CCQ tỉnh, phát huy vai trò người đứng đầu, trách nhiệm nêu gương. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối CCQ tỉnh cần nhận thức sâu sắc vai trò, trách nhiệm để thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời, tập trung triển khai thực hiện tốt công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, rà soát các chỉ tiêu, mục tiêu mà Nghị quyết nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra để xây dựng văn kiện và đề án nhân sự; chỉ đạo đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các nghị quyết của Trung ương, của tỉnh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới; chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, duy trì xây dựng và thực hiện mô hình “Chi bộ bốn tốt”, “Đảng bộ cơ sở bốn tốt”, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra giám sát, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm các tổ chức đảng, cá nhân vi phạm, tiếp tục đổi mới, sáng tạo, nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp đã đề ra… Tại lễ kỷ niệm, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã trao Cờ thi đua của Chính phủ cho Đảng ủy Khối CCQ tỉnh vì đã hoàn thành xuất sắc, toàn diện nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước của tỉnh Lạng Sơn năm 2023. Nhân dịp này, Chi bộ Cơ quan Đảng ủy Khối CCQ tỉnh được nhận Cờ thi đua của Ban Thường vụ Tỉnh ủy vì đã “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” tiêu biểu 5 năm liền 2019 - 2023; 01 tập thể và 6 đảng viên được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; 01 tập thể và 6 cá nhân được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác xây dựng và phát triển Đảng bộ Khối CCQ tỉnh giai đoạn 2019 - 2024. Trong chương trình, Đảng bộ Khối CCQ tỉnh đã công bố phát hành cuốn Lịch sử Đảng bộ Khối CCQ tỉnh Lạng Sơn 1954 - 2020 và tặng hoa chúc mừng lớp đảng viên mới gồm 70 đảng viên vừa được kết nạp sáng 27/9/2024 tại các chi, đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Khối CCQ tỉnh.
Ngày 02/10/2024, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số chủ trì Hội nghị trực tuyến triển khai mở rộng thí điểm sổ sức khỏe điện tử và cấp phiếu lý lịch tư pháp thông qua ứng dụng định danh điện tử VNeID trên toàn quốc. Tại điểm cầu tỉnh Lạng Sơn có đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, Tổ trưởng Tổ công tác triển khai Đề án 06 tỉnh; các thành viên Tổ công tác triển khai Đề án 06 tỉnh. Hội nghị cũng được truyền trực tiếp đến điểm cầu cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.Theo báo cáo tại hội nghị, thời gian qua, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, UBND các địa phương chuẩn bị các điều kiện về pháp lý, hạ tầng công nghệ, dữ liệu, nguồn lực để triển khai Sổ sức khoẻ điện tử, cấp Phiếu Lý lịch tư pháp trên VNeID. Kết quả, Bộ Y tế đã tạo lập hơn 32 triệu dữ liệu sổ sức khoẻ điện tử cho người dân, trong đó có hơn 14 triệu công dân đã tích hợp trên VNeID với hơn 12.500 trên tổng số gần 12.700 cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, đạt 98% số cơ sở khám chữa bệnh trên cả nước. Bộ Công an đã tạo lập và tích hợp hơn 911.600 dữ liệu về giấy chuyển tuyến; hơn 2,6 triệu dữ liệu về giấy hẹn tái khám trên VNeID. Về triển khai cấp Phiếu lý lịch tư pháp, sau hơn 4 tháng triển khai thí điểm tại Hà Nội và Thừa Thiên Huế, kết quả 2 địa phương đã tiếp nhận được 50 nghìn hồ sơ trên VNeID, chiếm hơn 70% tổng số hồ sơ yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp. Tại tỉnh Lạng Sơn, Sở Y tế đã tạo lập được 838.485 hồ sơ sức khỏe điện tử cho người dân; chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh duy trì cập nhật lịch sử khám chữa bệnh từ phần mềm quản lý bệnh viện lên hồ sơ sức khỏe điện tử của người dân. Thời gian tới, Sở Y tế tiếp tục nghiên cứu tham mưu UBND tỉnh xây dựng kế hoạch triển khai thí điểm sổ sức khỏe điện tử qua ứng dụng VNeID. Tại hội nghị, đại biểu các bộ ngành liên quan và các địa phương đã chia sẻ những kinh nghiệm trong quá trình triển khai thí điểm, cùng những cam kết, quyết tâm thực hiện mở rộng thí điểm theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong thời gian tới. Phát biểu kết luận tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ chỉ ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện, trong đó cần lấy chất lượng phục vụ, sự hài lòng của người dân làm thước đo hiệu quả; có mục tiêu cụ thể trong phân công, phân nhiệm; tăng cường phối hợp, bám sát thực tế, xử lý kịp thời, có hiệu quả; cần có sự quyết tâm, quyết liệt của người đứng đầu trong công tác lãnh đạo chỉ đạo. Thủ tướng Chính phủ đề nghị các bộ, ngành, các địa phương tiếp tục thống nhất tư tưởng chỉ đạo: chỉ bàn làm, không bàn lùi, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, cần có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, có trọng tâm trọng điểm; tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống” theo thời gian thực và kết nối, chia sẻ với nhau; hạ tầng phải thông suốt, nguồn nhân lực phải thông minh, tạo thuận lợi cho người dân, đặt lợi ích của người dân lên trên hết, trước hết, tránh lãng phí, dàn trải. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an phối hợp với cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện, tối ưu hóa các tiện ích hiện có trên ứng dụng VNeID, đảm bảo hệ thống hoạt động ổn định, an toàn, thuận tiện. Các Bộ, ngành, địa phương chủ động nghiên cứu, phối hợp với Bộ Công an đề xuất triển khai, tích hợp tiếp những loại giấy tờ đang quản lý và cung cấp các tiện ích mới trên ứng dụng VNeID. Tiếp tục quan tâm, đầu tư phát triển hạ tầng số. Ngoài ra, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ thực hiện dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp, phát huy vai trò của Tổ công nghệ số cộng đồng, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện tiếp cận công nghệ còn hạn chế…Trong chương trình hội nghị, Thủ tướng Chính phủ và các đồng chí Phó Thủ tướng, lãnh đạo các Bộ ngành đã thực hiện nghi thức bấm nút kích hoạt chính thức triển khai sổ sức khỏe điện tử và cấp phiếu lý lịch tư pháp qua VNeID trên toàn quốc.
Tin tổng hợp
VIỆT NAM NỘP ĐỆ TRÌNH RANH GIỚI THỀM
LỤC ĐỊA MỞ RỘNG KHU VỰC GIỮA BIỂN ĐÔNG
Sáng 17/7/2024 (theo giờ địa phương), tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc cùng Đoàn công tác của Bộ Ngoại giao do Đại sứ Trịnh Đức Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia làm Trưởng đoàn, đã chính thức nộp Hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở Khu vực Giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hợp Quốc (CLCS).
Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc,
nộp Hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở Khu vực Giữa Biển Đông
cho đại diện Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hợp Quốc (CLCS).
Cùng ngày, Bộ Ngoại giao đã ra Tuyên bố về việc Việt Nam nộp Đệ trình nêu trên.
Việc nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý là để thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), được quy định tại Điều 76 của UNCLOS. Theo đó, khi quốc gia ven biển có thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven biển cần phải nộp Đệ trình về các thông tin và dữ liệu liên quan để CLCS xem xét và ra khuyến nghị về ranh giới của thềm lục địa mở rộng.
Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Khu vực Giữa Biển Đông là đệ trình thứ ba của Việt Nam. Vào tháng 5/2009, Việt Nam đã nộp Đệ trình riêng về Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Khu vực Bắc Biển Đông và nộp Đệ trình chung với Malaysia về Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý đối với khu vực Nam Biển Đông.
Trong Công hàm gửi Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc về Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Khu vực Giữa Biển Đông, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp Đệ trình này sẽ không ảnh hưởng tới việc phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS.
Nhân dịp này, Đại sứ Đặng Hoàng Giang và Đoàn công tác của Bộ Ngoại giao Việt Nam bày tỏ cảm ơn sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc trong quá trình Việt Nam nộp các Đệ trình của mình theo đúng các quy định có liên quan của UNCLOS và CLCS.
Cùng ngày, Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đã gửi Công hàm tới Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc để bày tỏ lập trường của Việt Nam về việc Philippines nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Biển Đông vào ngày 14/6/2024./.
https://baochinhphu.vn/viet-nam-nop-de-trinh-ranh-gioi-them-luc-dia-mo-rong-khu-vuc-giua-bien-dong-102240718061938354.htm
TUYÊN BỐ CỦA BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM
VỀ VIỆC NỘP ĐỆ TRÌNH RANH GIỚI
THỀM LỤC ĐỊA MỞ RỘNG KHU VỰC GIỮA BIỂN ĐÔNG
Ngày 17/7/2024 (theo giờ địa phương), đại diện Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao cho Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hợp Quốc (CLCS) Hồ sơ Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam tại Khu vực Giữa Biển Đông (VNM‑C). Nhân sự kiện này, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra tuyên bố.
Đoàn đại biểu nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao cho đại diện Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hợp Quốc (CLCS)
Hồ sơ Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam tại Khu vực Giữa Biển Đông
Toàn văn tuyên bố như sau:
1. Là quốc gia lục địa tiếp giáp với Biển Đông và là quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), căn cứ vào các quy định liên quan của UNCLOS và phù hợp với điều kiện địa lý tự nhiên của mình, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, khoa học để khẳng định Việt Nam có quyền có thềm lục địa tự nhiên mở rộng ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam.
Năm 2009, Việt Nam đã hoàn thành 2 Đệ trình quốc gia: Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Bắc Biển Đông (VNM‑N), Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông (VNM‑C); đồng thời hợp tác cùng Malaysia xây dựng Đệ trình chung Ranh giới thềm lục địa mở rộng đối với Khu vực Nam Biển Đông.
Tháng 5/2009, Việt Nam đã nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Bắc Biển Đông và cùng với Malaysia nộp Đệ trình chung Ranh giới thềm lục địa mở rộng đối với Khu vực Nam Biển Đông. Trong Công hàm gửi CLCS khi đó, Việt Nam đã khẳng định sẽ nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông vào thời điểm sau (nêu tại Công hàm số CLCS.37.2009.LOS ngày 11/5/2009 của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc gửi tất cả các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc).
2. Sau khi một số quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông đã nộp các Đệ trình riêng của mình từ năm 2019 đến nay, việc Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông là nhằm bảo đảm các quyền hợp pháp của Việt Nam đối với phần thềm lục địa mở rộng của Việt Nam tại khu vực giữa Biển Đông mà Việt Nam hoàn toàn có quyền được hưởng phù hợp với Điều 76 của UNCLOS. Việt Nam khẳng định việc Việt Nam nộp Đệ trình tại Khu vực Giữa Biển Đông không ảnh hưởng đến việc phân định biển giữa Việt Nam với các quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông trên cơ sở UNCLOS.
3. Nhân dịp này, Việt Nam khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế và các quyền của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông được xác lập phù hợp với UNCLOS. Đồng thời, Việt Nam cam kết sẵn sàng giải quyết và kiểm soát các tranh chấp, bất đồng về chủ quyền lãnh thổ liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các tranh chấp về phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình, đồng thời cùng các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế, duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không và phát triển bền vững ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS./.
https://baochinhphu.vn/tuyen-bo-cua-bo-ngoai-giao-viet-nam-ve-viec-nop-de-trinh-ranh-gioi-them-luc-dia-mo-rong-khu-vuc-giua-bien-dong-10224071806281662.htm
SỰ PHẢN ĐỘNG, THÙ ĐỊCH CỦA MỘT NHÓM NGƯỜI
CÓ ẢNH HƯỞNG TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG
Sự bùng nổ của mạng xã hội (MXH) với khả năng tùy biến, cá nhân hóa và tốc độ truyền tin ngày càng cao mang lại những lợi ích không thể phủ nhận cho cộng đồng. Tuy vậy, với mục đích và ý đồ xấu, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam đang lợi dụng điều này để xây dựng một thế lực ảo-KOLs thù địch, phản động trên không gian mạng. Với khả năng dẫn dắt tư tưởng một bộ phận cộng đồng mạng, KOLs thù địch, phản động tìm mọi cách điều hướng dư luận, gieo rắc tư tưởng độc hại nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta.
“Lính đánh thuê” trên không gian mạng
KOLs (Key Opinion Leaders) - được hiểu là những người có ảnh hưởng lên một bộ phận nhất định trong cộng đồng mạng. Thông qua các ứng dụng như Facebook, YouTube, TikTok... KOLs xây dựng và sở hữu một kênh riêng như "cơ quan truyền thông" cá nhân, thu hút lượng lớn người theo dõi và ủng hộ, qua đó có thể chi phối, điều hướng dư luận trên
không gian mạng, tạo ra các tác động ở những chiều cạnh khác nhau, với những mức độ, phạm vi khác nhau đối với cộng đồng và xã hội.
Một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam
đang lợi dụng MXH để xây dựng một thế lực ảo-các KOLs
thù địch, phản động trên không gian mạng. Ảnh minh họa: sotttt.sonla.gov.vn
Hiện nay, KOLs có thể được chia thành 3 nhóm chính: Những người có uy tín, ảnh hưởng trong xã hội, bao gồm các chính khách, nhà khoa học, nhà báo, doanh nhân, văn nghệ sĩ...; những người hoạt động sáng tạo trên không gian mạng, thu hút nhiều người quan tâm, theo dõi nhờ bản sắc riêng của cá nhân, không phân biệt địa vị, ngành nghề, trình độ chuyên môn; những người có khả năng tạo ra ảnh hưởng gián tiếp thông qua quản lý các kênh truyền thông có lượng theo dõi lớn trên không gian mạng, sở hữu năng lực kỹ thuật ảnh hưởng đến hoạt động của người khác trên không gian mạng.
Bên cạnh KOLs hoạt động lành mạnh, có ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng mạng và đời sống xã hội, xuất hiện một bộ phận KOL lạm dụng quyền lực MXH, sa vào “truyền thông bẩn”, “câu view” để kiếm tiền, đánh bóng bản thân. Thậm chí, có một bộ phận thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật, mang tư tưởng thù địch, bị các thế lực xấu lợi dụng, dung túng với mục đích chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam - đó chính là KOLs thù địch, phản động.
KOLs thù địch, phản động khác với KOLs thông thường cả về bản chất, quá trình hình thành lẫn nội dung, phương thức và mục đích hoạt động. Xét về bản chất, KOLs thù địch, phản động là đối tượng có khả năng gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, cần phải đấu tranh loại bỏ. Những đối tượng này luôn được hậu thuẫn, giúp sức cả về vật chất, tinh thần bởi các thế lực thù địch chống phá Việt Nam. Đối với KOLs thù địch, phản động, mục tiêu “dân chủ”, “nhân quyền”... không phải là lý tưởng cần thực hiện mà chỉ là chiêu bài, phương thức trục lợi. Nói cách khác, thực chất, họ là tay sai, những “con rối”, “lính đánh thuê” trên không gian mạng của các tổ chức khủng bố, phản động lưu vong nước ngoài, của các thế lực thù địch đối với Việt Nam.
Quá trình trở thành KOLs thù địch, phản động thường theo một môtíp là: Từ bất mãn khi không đạt được mục đích vị kỷ của cá nhân hoặc do sa đọa, vi phạm pháp luật đến thể hiện quan điểm chống phá chính quyền trên không gian mạng, bị các thế lực thù địch lôi kéo, các tổ chức phản động và cơ quan truyền thông thiếu thiện chí ở nước ngoài hà hơi tiếp sức, cuối cùng, được “tuyển mộ” vào các tổ chức phản động, điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam trên không gian mạng. Có thể kể đến một số KOL có tư tưởng thù địch, phản động như: Trương Quốc Huy, Lê Văn Thương, Đường Văn Thái...
Về nội dung, KOLs thù địch, phản động không “sáng tạo nội dung số” lành mạnh như KOLs chân chính, mà lấy thông tin sai trái, bịa đặt, phản động để thu hút nhiều người theo dõi, coi đó là phương thức sinh tồn, vừa nhằm đạt mục đích “đấu tranh”, vừa kiếm tiền từ quảng cáo, sự ủng hộ của hội viên kênh... trên các nền tảng MXH. Họ tập trung lan truyền những thông tin sai trái, bịa đặt, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử và tình hình đất nước Việt Nam; xuyên tạc, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước; phủ nhận thành quả của công cuộc đổi mới; khoét sâu vào những “khoảng trống thông tin” trước, trong và sau các sự kiện chính trị, vụ việc phức tạp, nhạy cảm để tung tin hỏa mù, hướng lái, dẫn dắt dư luận, tấn công, tác động vào sự hiếu kỳ của công chúng, gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận xã hội.
Về phương thức hoạt động, KOLs thù địch, phản động ngày một tinh vi, xảo quyệt hơn khi được đào tạo, huấn luyện chuyên nghiệp; biết triệt để lợi dụng những ưu thế của MXH (phát trực tiếp, không cần qua quy trình xuất bản) và hoạt động ngày càng có tổ chức, có sự phối hợp, hỗ trợ nhau chặt chẽ. Chúng biết khai thác nhiều chủ đề chính trị - xã hội mà đông đảo người dân quan tâm, đưa ra những mục tiêu rất cao cả và gắn liền với lợi ích của người dân để thu hút dư luận. Kết hợp cập nhật tin bài về tình hình thời sự trong nước, song tiếp cận theo hướng có tính đả phá, kích động với tổ chức các “chiến dịch” quy mô lớn gắn với các sự kiện, các vụ việc phức tạp trong nước.
Chúng cũng triệt để tận dụng các nguồn lực trên không gian mạng để xây dựng kênh ngoại vi, kênh “sạch” nhằm duy trì nguồn doanh thu ổn định. Đồng thời, thực hiện “tẩy trắng” kênh, tái sử dụng nội dung video, móc nối với các đối tượng trong nước để chuyển nhượng, tái sử dụng kênh để hoạt động không bị gián đoạn khi bị cơ quan chức năng xử lý. Bên cạnh đó, chúng cũng áp dụng các phương thức kỹ thuật để lách thuật toán kiểm soát của các MXH cũng như tăng đề xuất, tương tác đến người dùng, nhằm tán phát rộng hơn, nhanh hơn các thông tin sai trái, thù địch, phản động.
Vật chủ mang virus độc hại
Theo thống kê của We Are Social và Meltwater, tính đến tháng 1-2023, Việt Nam có 77 triệu người dùng MXH, trong đó, người dùng Facebook là hơn 66 triệu người, YouTube là 63 triệu người, TikTok gần 50 triệu người. Sự phát triển mạnh mẽ của internet với sự tham gia MXH ngày càng đông đảo của công chúng trong nước đã và đang được KOLs thù địch, phản động triệt để lợi dụng để tán phát thông tin xấu độc. Đơn cử đối tượng Trương Quốc Huy - một KOL thù địch, phản động cộm cán đang sở hữu kênh YouTube N10TV với 1,54 triệu người đăng ký; đã xuất bản 4.008 video có thông tin sai trái, thù địch; có tổng hơn 1,2 tỷ lượt xem.
Trương Quốc Huy cũng sở hữu trang cá nhân Facebook với hơn 130.000 người theo dõi; trang TikTok hơn 10.000 người theo dõi. Với lượng người theo dõi lớn, Trương Quốc Huy thường tán phát thông tin sai trái, thù địch, phản động rộng rãi trong cộng đồng mạng. Đáng ngại hơn, sự tung hô, giúp sức của KOLs thù địch, phản động khác ở trong và ngoài nước; của các hãng truyền thông thiếu thiện chí và các tổ chức phản động lưu vong nước ngoài, các video, clip, bài viết... của Trương Quốc Huy luôn được đồng loạt chia sẻ, tái sử dụng, tán phát, khiến cho lượng truy cập tăng lên nhiều.
Thực tế trên cho thấy, KOLs thù địch, phản động là mối nguy hại thường xuyên đối với Việt Nam. Hiện nay, với sự xuất hiện của KOLs có tầm tác động, ảnh hưởng lớn trên MXH với nhiều bài đăng nhằm mục đích đả phá, kích động, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đưa ra những nhận định, đánh giá thiếu khách quan, phiến diện về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước “đã tạo nên những xu hướng thông tin dẫn dắt cộng đồng mạng”, nhất là trong các vụ việc lớn, phức tạp, như: Vạn Thịnh Phát - SCB, FLC, Tân Hoàng Minh, Việt Á...
Tính chất nguy hại của KOLs thù địch, phản động còn thể hiện ở chỗ họ thi hành “mệnh lệnh” của các “ông chủ” ở nước ngoài với mục tiêu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. KOLs thù địch, phản động - với bản chất là “lính đánh thuê”-không ngần ngại trở thành những vật chủ mang virus độc hại, đã và đang ngày đêm tán phát, lây lan trên MXH, từng bước gặm nhấm niềm tin của công chúng, của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những virus độc hại này trực tiếp tấn công vào nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phá hoại quá trình đổi mới, hội nhập, phát triển của đất nước; gây chia rẽ nội bộ, gây hoài nghi, bức xúc trong nhân dân, kích động cái gọi là “biểu tình trong tâm thức”, “vượt biên trong tư tưởng” trong cộng đồng mạng như bước chuẩn bị cho một cuộc “cách mạng màu” ở Việt Nam trong tương lai.
Hiện nay, hoạt động chống phá của KOLs thù địch, phản động trên không gian mạng rất phức tạp, với những thủ đoạn, phương thức rất tinh vi và liên tục thay đổi theo tình hình thực tế. Chính vì vậy, các chủ thể, lực lượng, trực tiếp là các cơ quan chức năng cần nhận diện chính xác, phân loại rõ mức độ, tính chất nguy hại, phương thức hoạt động... của từng KOL thù địch, phản động để vạch trần âm mưu, bản chất thâm độc của họ.
Trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt phương châm “lấy xây để chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi chúng ta cần nâng cao khả năng tự phòng, chống, vạch trần âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị, nhất là trên không gian mạng. Các cơ quan chức năng, nhà trường cũng như các cơ quan báo chí tiếp tục chú trọng, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức đúng đắn giá trị và bản chất khoa học, cách mạng của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, xây dựng bản lĩnh, niềm tin vững chắc vào chế độ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã chọn.
Đại tá, TS NGUYỄN VĂN NAM và Trung tá, TS LƯƠNG THANH DUY (Khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Trường Sĩ quan Lục quân 1)