TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN

TỈNH LẠNG SƠN

Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ

Thông tin tuyên truyền tháng 7/2024

05-07-2024 02:08

     Ngày 14/6/2024, Công ty cổ phần Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam Singapore (VSIP JSC) đã tổ chức Lễ khởi công dự án VSIP Lạng Sơn trên diện tích 600ha tại xã Hồ Sơn và Hòa Thắng, huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn). Đây là khu công nghiệp lớn nhất tỉnh Lạng Sơn, được kỳ vọng mở ra cơ hội bứt phá trong phát triển kinh tế, xã hội, thu hút đầu tư, tạo việc làm cho lao động. Dự án có tổng mức đầu tư hơn 6.361 tỷ đồng, trong đó, vốn góp của nhà đầu tư hơn 954 tỷ đồng. Dự án có quy mô gần 600ha; trong đó, giai đoạn 1 có quy mô sử dụng đất khoảng 200ha, giai đoạn 2 với quy mô sử dụng đất khoảng 250ha và giai đoạn 3 với quy mô sử dụng đất khoảng 149,76ha. Dự án do Công ty cổ phần Phát triển đô thị và Khu Công nghiệp Việt Nam - Singapore là nhà đầu tư. Dự kiến, đến quý III/2025, giai đoạn 1 dự án đi vào hoạt động; giai đoạn 2 hoàn thành vào tháng 9/2026; giai đoạn 3 hoàn thành vào tháng 9/2027. Sau khi hoàn thành cả 3 giai đoạn, đi vào hoạt động, dự kiến khu công nghiệp này sẽ tạo việc làm cho khoảng 40 nghìn lao động. Phát biểu tại lễ khởi công, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn Hồ Tiến Thiệu nhấn mạnh: Việc triển khai, hoàn thành đầu tư hạ tầng đưa khu công nghiệp đi vào hoạt động kỳ vọng sẽ đem lại lợi ích lớn cho nhà đầu tư, đóng góp tích cực vào việc nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu hàng hóa của tỉnh, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho lao động địa phương, tăng thu cho ngân sách nhà nước, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhanh và bền vững. Trong thời gian tới: Các sở, ban, ngành của tỉnh tiếp tục quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư để đẩy nhanh tiến độ thi công; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, kịp thời hỗ trợ nhà đầu tư giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai dự án. Đề nghị nhà đầu tư, các đơn vị tư vấn, các nhà thầu tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng; bảo đảm chất lượng, an toàn công trình, an toàn lao động, vệ sinh môi trường, bảo vệ kết cấu hạ tầng khu vực dự án; phối hợp tốt với các sở, ban, ngành của tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện Hữu Lũng trong suốt quá trình triển khai thực hiện dự án. Sự thành công của dự án sẽ là tiền đề quan trọng để từng bước tháo gỡ điểm nghẽn, hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, trọng tâm là hạ tầng khu công nghiệp theo quy hoạch tỉnh Lạng Sơn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 17, nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra.

      Từ ngày 19-20/6/2024, nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin đã thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam. Đây là chuyến thăm với nhiều ý nghĩa quan trọng, có thể coi là một điểm nhấn nổi bật của đối ngoại Việt Nam năm 2024, thể hiện ở những điểm chính sau: (1) Chuyến thăm khẳng định đường lối đối ngoại nhất quán của Việt Nam về độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Với việc đón Tổng thống Putin, Việt Nam khẳng định luôn coi Nga là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu, mong muốn cùng Nga củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời và làm sâu sắc hơn khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện đã được xác lập. (2) Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh hai nước kỷ niệm 30 năm ký kết Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nga (16/6/1994 - 16/6/2024), tiến tới kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (30/1/1950 - 30/1/2025), là dịp hai bên đánh giá những kết quả đã đạt được và đề ra những định hướng để đưa quan hệ hợp tác và đối tác Việt - Nga trong thời gian tới phát triển toàn diện, hiệu quả và thực chất hơn. (3) Chuyến thăm thể hiện sự coi trọng dành cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại Hướng Đông của Nga. Trong hơn hai thập kỷ lãnh đạo Liên bang Nga, đây là lần thứ năm Tổng thống Vladimir Putin thăm Việt Nam, đồng thời là một trong những chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi tái đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ 5 vào tháng 3/2024. Những chuyến đi của Tổng thống Vladimir Putin để lại dấu ấn đậm nét và đóng góp vào việc tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga, trong đó có việc khởi xướng, ủng hộ thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga năm 2001 và nâng cấp lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012.
        Chuyến thăm của Tổng thống Vladimir Putin đã tạo xung lực mới cho hợp tác nhiều mặt Việt - Nga. Thông qua Tuyên bố chung, 11 văn kiện hợp tác được ký kết và các cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, hai bên đã nhất trí về những định hướng lớn nhằm làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga trên những phương diện sau: Một là, tăng cường đối thoại, tiếp xúc cấp cao và các cấp và trên tất cả các kênh; triển khai hiệu quả các cơ chế hợp tác để thúc đẩy hợp tác trên tất cả các lĩnh vực; tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn đa phương, đặc biệt Liên hợp quốc, APEC, các cơ chế hợp tác ASEAN - Nga… Nga khẳng định ủng hộ Việt Nam đăng cai Năm APEC 2027 và sẵn sàng phối hợp với Việt Nam tổ chức thành công sự kiện quan trọng này; tiếp tục ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực. Hai là, khẳng định hợp tác kinh tế tiếp tục là trụ cột, trọng tâm của hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Hai bên sẽ cùng nhau phối hợp tháo gỡ khó khăn và thống nhất giải pháp để nâng cao hiệu quả hợp tác; nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ chế hợp tác song phương, đặc biệt là Ủy ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật; sớm thống nhất, triển khai Kế hoạch tổng thể phát triển hợp tác Việt Nam - Nga đến năm 2030. Hai bên cũng sẽ phối hợp cùng khai thác tối đa các lợi thế của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu, tiếp tục tháo gỡ các rào cản thương mại, tạo thuận lợi hơn nữa cho thương mại song phương; mở rộng tiếp cận thị trường Nga cho xuất khẩu hàng tiêu dùng và nông thủy sản của Việt Nam; thúc đẩy hợp tác đầu tư, nhất là về hạ tầng cơ sở, năng lượng. Ba là, mở rộng hợp tác quốc phòng - an ninh nhằm ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống và phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn đa phương về quốc phòng - an ninh, đặc biệt các cơ chế do ASEAN dẫn dắt như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), đóng góp cho hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Bốn là, đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, du lịch, lao động, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, hợp tác địa phương, giao lưu nhân dân, giáo dục thế hệ trẻ... nhằm củng cố nền tảng nhân văn vững chắc cho quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên đã ký kết 11 văn kiện hợp tác giữa các bộ, ngành, doanh nghiệp hai nước, tạo động lực thúc đẩy quan hệ song phương. Hai bên nhất trí tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam tại Nga và công dân Nga tại Việt Nam sinh sống, học tập và lao động ổn định, làm cầu nối hữu nghị giữa hai nước. Năm là, lãnh đạo cấp cao hai bên đã trao đổi thẳng thắn, tin cậy về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Theo đó, hai bên khẳng định ủng hộ hệ thống quan hệ quốc tế công bằng, dựa trên luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, nhất là giải quyết hòa bình các tranh chấp, không đe dọa và sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về vấn đề Biển Đông, hai bên ủng hộ việc bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982); ủng hộ thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biên Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Hai bên đã ra “Tuyên bố chung giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga về làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện trên cơ sở những thành tựu của 30 năm thực hiện Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nga”, thể hiện quyết tâm của Lãnh đạo và nhân dân hai nước đưa hợp tác song phương ngày càng hiệu quả, thực chất trên tất cả các lĩnh vực, xứng tầm Đối tác chiến lược toàn diện, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của cả nhân dân hai nước, đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
        Chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam của Tổng thống Vladimir Putin đã thành công tốt đẹp. Chúng ta đã dành cho Tổng thống Vladimir Putin và Đoàn đại biểu cấp cao Nga sự đón tiếp hết sức trọng thị, thân tình, chu đáo. Nhân dân Việt Nam, nhất là những người đã từng học tập, làm việc tại Liên Xô trước đây và tại Liên bang Nga ngày nay luôn lưu giữ và trân trọng những tình cảm tốt đẹp với đất nước và Nhân dân Nga. Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, chí tình mà nhân dân Nga đã dành cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Hai bên trân trọng mối quan hệ hữu nghị, truyền thống lâu đời đã được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước đặt nền móng và vun đắp, trở thành tài sản chung quý báu giữa hai dân tộc, là nền tảng để quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga tiếp tục phát triển vì lợi ích của mỗi nước và đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Tình cảm này, những thành tựu tích cực triển khai Hiệp ước 1994 về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nga và những kết quả quan trọng đạt được trong chuyến thăm sẽ là cơ sở quan trọng để hai nước kế thừa và phát huy, tiếp tục phát triển và nâng tầm quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời và Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga.
        Ngày 27, 28/6/2024, đã diễn ra Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024. Năm nay cả nước có tổng số 1.071.393 thí sinh đăng ký dự thi. Trong đó, số thí sinh đăng ký trực tuyến là 1.014.020, chiếm 94,66% tổng số thí sinh; số thí sinh đăng ký trực tiếp là 57.373, chiếm 5,34%. Tổng số thí sinh tự do là 46.978, chiếm 4,38%.Toàn quốc có 2.323 Điểm thi, với tổng số 45.149 phòng thi. Các Điểm thi đặt tại địa phương nơi thí sinh theo học đã giúp thí sinh không phải di chuyển xa, không phải lo chỗ ăn ở, tạo tâm thế bình tĩnh, tự tin hơn khi làm bài, đồng thời không gây áp lực về giao thông tại các thành phố lớn. Theo tổng kết đến 16 giờ ngày 28/6, tổng số thí sinh bị xử lý vi phạm Quy chế thi là 30 thí sinh, giảm hơn so với năm trước (năm 2023 là 41 thí sinh). Đặc biệt, không có cán bộ nào vi phạm Quy chế thi trong quá trình coi thi. Đánh giá sơ bộ, Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 đã diễn ra trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi trên cả nước. Công tác chuẩn bị tổ chức thi được thực hiện chủ động, khẩn trương, kỹ lưỡng, chu đáo, toàn diện. Việc tổ chức coi thi tại tất cả các Điểm thi bảo đảm an toàn, nghiêm túc, đúng Kế hoạch, đáp ứng yêu cầu tổ chức thi gọn nhẹ, thiết thực. Kỳ thi được tổ chức nghiêm túc, trung thực, khách quan, an toàn, đúng quy chế, bảo đảm thuận lợi và công bằng cho các đối tượng thí sinh. Công tác đề thi được thực hiện nghiêm túc, an toàn, bảo mật từ Trung ương đến địa phương. Đề thi cơ bản đáp ứng yêu cầu tổ chức thi. Theo đánh giá ban đầu của thí sinh, giáo viên và dư luận xã hội, đề thi các bài thi/môn thi nằm trong chương trình THPT, có sự phân hóa phù hợp bảo đảm kết quả thi chính xác, khách quan dùng để xét công nhận tốt nghiệp THPT và cung cấp dữ liệu cho các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp sử dụng để tuyển sinh theo tinh thần tự chủ. Công tác phòng chống gian lận công nghệ cao đã được quan tâm chỉ đạo và quán triệt đến các Hội đồng thi và các Điểm thi, đến từng cán bộ tham gia công tác thi. Trong đó có sự phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ tích cực của các đơn vị chức năng của Bộ Công an. Các Hội đồng thi đã thực hiện nghiêm theo hướng dẫn thi năm nay trong việc bố trí địa điểm bảo quản vật dụng cá nhân của thí sinh bảo đảm an toàn, cách phòng thi ít nhất 25m. Ban Chỉ đạo thi các cấp đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc tổ chức coi thi tại các Điểm thi, kịp thời phát hiện, nhắc nhở và hỗ trợ khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong quá trình tổ chức coi thi để tăng cường kỷ cương trường thi, giữ nghiêm kỷ luật phòng thi. Một số thiếu sót trong quá trình thực thi nhiệm vụ của cán bộ làm công tác thi được khắc phục kịp thời. Các hành vi vi phạm Quy chế của thí sinh đã được kịp thời phát hiện và xử lý theo đúng quy định của Quy chế thi, bảo đảm tính nghiêm minh của Kỳ thi. Năm nay, công tác hỗ trợ thí sinh tham dự Kỳ thi đã được Ban Chỉ đạo thi các cấp đặc biệt quan tâm, được cả hệ thống chính trị vào cuộc. Các địa phương đều có các giải pháp hỗ trợ tối đa cho thí sinh trong các ngày thi; đảm bảo không để thí sinh nào vì hoàn cảnh khó khăn mà không đến dự thi theo đúng tinh thần của Công điện số 60/CĐ-TTg ngày 22/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ. Tất cả các thí sinh, kể cả trường hợp ốm đau, không tự viết bài được cũng đã được tạo điều kiện để có thể tham dự Kỳ thi (tại Hội đồng thi Bình Phước, Đà Nẵng, Hải Dương và TP Hồ Chí Minh có thí sinh bị gãy tay, không viết được bài đã được Hội đồng thi bố trí người viết bài và thực hiện đầy đủ quy định bảo đảm thi an toàn nghiêm túc). Các địa phương, nhất là các địa phương có các huyện, xã miền núi, hải đảo đã quan tâm sâu sát đến từng thí sinh là người đồng bào dân tộc, những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, huy động các nguồn lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thí sinh tham gia Kỳ thi. Trong thời gian tới, Bộ GDĐT tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện tốt các khâu chấm thi, đối sánh dữ liệu điểm thi, công bố kết quả thi, phúc khảo bài thi, xét công nghiệp tốt nghiệp THPT cho thí sinh và tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non năm 2024. Các đoàn kiểm tra của Ban Chỉ đạo thi cấp quốc gia và 63 đoàn kiểm tra chấm thi của Bộ GDĐT sẽ thực hiện kiểm tra công tác chấm thi ở 63 Hội đồng thi trong suốt thời gian diễn ra hoạt động này để tăng cường tính nghiêm minh của công tác chấm thi. Các địa phương thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc quy trình chấm thi tự luận, chấm thi trắc nghiệm và phúc khảo bài thi bảo đảm đúng quy chế và hướng dẫn của Bộ GDĐT, có camera giám sát phòng chấm thi 24/24 giờ. Tăng cường củng cố hạ tầng công nghệ thông tin để việc công bố kết quả thi được thuận lợi, không xảy ra tình trạng nghẽn mạng. Sẵn sàng hỗ trợ thí sinh thay đổi nguyện vọng đăng ký xét tuyển đại học, cao đẳng sau khi có kết quả thi. Triển khai xét công nhận tốt nghiệp THPT cho thí sinh bảo đảm đúng quy chế. Trong đó, tập trung rà soát kỹ thông tin dữ liệu đăng ký thi và xét công nhận tốt nghiệp THPT.Các cơ sở giáo dục đại học tiếp tục phối hợp thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra các khâu chấm thi của Kỳ thi theo kế hoạch và điều động của Bộ GDĐT. Chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện công tác tuyển sinh ngay sau kết thúc Kỳ thi: Cung cấp đầy đủ thông tin tuyển sinh của trường; kịp thời hỗ trợ thí sinh trong việc giải đáp các thông tin liên quan đến tuyển sinh; bố trí đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực cho công tác xét tuyển; vận hành tốt các phần mềm tuyển sinh; xây dựng các giải pháp phù hợp với thực tế của đơn vị để tuyển sinh thuận lợi và hiệu quả. Dự kiến công bố kết quả Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 vào 8h00 ngày 17/7/2024.
        Ngày 29/6/2024, tại cuộc họp báo, công bố kết quả Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Minh Tuấn đã thông tin về việc tăng lương, cải cách tiền lương cụ thể như sau: (1) Tăng lương tối thiểu vùng và mức lương cơ sở từ 1/7/2024. Quốc hội đã quyết nghị, thực hiện đầy đủ 2 nội dung cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp theo đúng Nghị quyết số 27-NQ/TW. Theo đó, Quốc hội quyết nghị điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật Lao động (tăng bình quân 6% áp dụng từ ngày 01/7/2024); quy định cơ chế tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước (áp dụng từ ngày 01/01/2025).Thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW trong khu vực công theo lộ trình, từng bước, thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính khả thi và góp phần nâng cao đời sống người hưởng lương. Trong đó, giao Chính phủ triển khai thực hiện các nội dung đã rõ, đủ điều kiện để thực hiện, gồm: hoàn thiện chế độ nâng lương; bổ sung chế độ tiền thưởng; quy định nguồn kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập. Điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng/tháng lên 2,34 triệu đồng/tháng (tăng 30%) từ ngày 1/7/2024…(2) Lý giải việc tăng lương cơ sở 30% mà chỉ tăng lương hưu 15%. Từ ngày 01/7/2024, Quốc hội quyết nghị điều chỉnh tăng 15% mức lương hưu. Trước đó, đã có mấy lần điều chỉnh lương hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.Vừa qua, Ban Chỉ đạo cải cách tiền lương dự tính nếu tăng lương hưu 11,5% trong đợt này thì sẽ ngang bằng với mức tăng 30% của cán bộ, công chức, nhưng do các cụ hưu trí còn nhiều khó khăn, dự kiến lương lên - giá lên. Vì vậy, Ban Chỉ đạo cải cách tiền lương đã cân nhắc, xác định chuyển từ 11,5% lên 15%. Như vậy, tuy điều chỉnh tăng 15% mức lương hưu, song thực tế nếu cộng lại các chỉ số giá CPI qua các năm, thì tương đương với mức tăng trên 30% so với cán bộ, công chức. Đối với cán bộ, công chức do nhiều lần chưa thực hiện tăng lương được, nên lần này tăng đồng bộ 30%. (3) Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương thận trọng, chắc chắn, hiệu quả. Thực tế, việc thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW đã có 3 lần lùi và tới nay vẫn chưa hoàn thành các nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết này. Ban Chỉ đạo cải cách tiền lương đã họp hơn hai mươi cuộc, thực hiện được 4 nội dung và còn 2 nội dung chưa thực hiện được. Cụ thể, đối với bảng lương mới, chúng ta xác định theo vị trí việc làm. Trên cơ sở đó xác định tinh giản biên chế như thế nào, mức lương từng vị trí ra sao cho thích hợp. Nhưng quá trình thực hiện cho thấy, việc xác định vị trí việc làm chưa đồng bộ, hiện nay còn đang tích hợp từ các bộ, ngành, các địa phương và chưa có sự thống nhất tương đối giữa các bộ, ngành, địa phương, dù chung một lĩnh vực. Bên cạnh đó, bảng lương của lực lượng vũ trang cũng có những biến động nhất định. Ba thang bảng lương phải xác định rõ từng vị trí. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, chưa đến 30% là bao gồm số đơn vị tự chủ toàn phần (tự chủ cả chi thường xuyên và đầu tư), đơn vị tự chủ được chi thường xuyên và tự chủ một phần chi thường xuyên. Còn lại trên 70% chưa tự chủ được, do ngân sách Nhà nước xử lý. (4) Rà soát tổng thể tất cả bảng lương để có sự thống nhất quản lý nhà nước về tiền lương. Nếu không giải quyết được bài toán vị trí việc làm ở các đơn vị sự nghiệp công lập và có cơ chế giải quyết, thì không biết tính nguồn lực thế nào để xử lý vấn đề cải cách tổng thể về tiền lương. Chính vì thế phải rà soát thật kỹ, tính toán thật kỹ. Nêu rõ, cần xác định vị trí việc làm trên cơ sở đã giảm được biên chế, rồi mới tính ra các mức lương, hệ số lương… thì mới hợp lý, nhưng chưa làm được. Và sắp tới sẽ rà soát tổng thể tất cả bảng lương ở từng lĩnh vực liên quan để có sự thống nhất quản lý nhà nước về tiền lương. Trên cơ sở đó tính toán nguồn lực và có giải pháp thực thi hiệu quả. (5) Tiếp tục nghiên cứu, tính toán hài hòa vấn đề phụ cấp. Về 9 chế độ phụ cấp, ông Phong cho biết: Hiện còn đang vướng mắc. Trước đây, phụ cấp chiếm 40% tổng thu nhập và hiện bây giờ rút lại còn 30%. Nhưng nếu xử lý không đồng bộ, sẽ có những người rất thiệt thòi ở trong chính ngành nghề của họ hoặc ở đơn vị công tác, nơi vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Có người so với thời điểm hiện hành chưa cải cách tiền lương còn khá hơn, nhưng khi cải cách rồi mà không áp dụng phụ cấp nữa thì càng thấp. Điều này sẽ dẫn tới tình trạng không khuyến khích được nhân tài cũng như nỗ lực của người lao động, cán bộ, công chức, viên chức, dễ dẫn đến bức xúc trong tâm tư, tình cảm và tư tưởng. "Ban Chỉ đạo cải cách tiền lương cũng nhận được rất nhiều ý kiến, kiến nghị về vấn đề này". Mặt khác, nếu áp dụng đầy đủ theo 9 phụ cấp này cũng có nhiều vấn đề phát sinh, kể cả đối với người nhận lương hưu trước 1/7/2024 cũng khác so với người nhận lương hưu sau 1/7/2024. Trước những bất cập này, nhận thấy chưa có sự tương thích đồng bộ giữa các đối tượng thụ hưởng, Ban Chỉ đạo cải cách tiền lương đã đề nghị tiếp tục nghiên cứu, tính toán hài hòa vấn đề phụ cấp. Đồng thời, tính toán 10% Quỹ khen thưởng khác so với quy định của Luật Thi đua, khen thưởng, nhằm động viên từng cơ quan, đơn vị khi thực hiện cải cách tiền lương. (6) Phải có sự đánh giá hết sức kỹ càng khi thực thi cải cách tiền lương để mang lại hiệu quả, công bằng, hợp lý. Để thực hiện toàn diện chính sách cải cách tiền lương, sẽ phải sửa trên 20 văn bản có liên quan đối với lương cơ sở. Trong Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua đã áp dụng bằng mức tham chiếu. Nếu bỏ lương cơ sở thì phải sửa các văn bản quy phạm pháp luật của Đảng, Nhà nước và Chính phủ hiện vẫn đang rà soát, chưa thể trình và đề nghị đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội để hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật khi thực hiện chính sách cải cách tiền lương.Liên quan đến vấn đề tiền lương phải có sự đánh giá hết sức kỹ càng khi thực thi để mang lại hiệu quả, công bằng, hợp lý trên từng lĩnh vực, đặc biệt là cân đối được nguồn lực thực hiện. Chỉ rõ thực tế này, Phó Chủ nhiệm Ủy Xã hội cho biết: "Tới giờ phút này, chúng ta đã cân đối được 913.000 tỷ đồng cho tới năm 2026. Từ năm 2026 về sau, nguồn lực như thế nào thì chúng ta chưa dự báo và xác định được".
Tin tổng hợp
 
NHỮNG ĐIỂM CỐT LÕI TRONG QUY ĐỊNH 144-QĐ/TW
VỀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
 
     Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị có tính hệ thống, khái quát, cập nhật và góp phần đồng bộ với các quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; có tính liên thông với các quy định về những điều đảng viên không được làm, về nêu gương của Đảng. Làm rõ những điểm mới, cốt lõi trong Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và hành động, góp phần đưa các chuẩn mực đạo đức cách mạng giai đoạn mới nhanh chóng đi vào cuộc sống.
     1. Đại hội XII của Đảng đã tách nội dung Xây dựng Đảng về đạo đức thành một mặt độc lập cùng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong tổng thể công tác Xây dựng Đảng. Tiếp nối tinh thần đó, Đại hội XIII của Đảng xác định đưa công tác cán bộ thành một mặt độc lập hợp thành tổng thể 5 mặt của công tác Xây dựng Đảng là: chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.
     Thực tế cho thấy, từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thời gian gần đây, các quy định về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng và thực hiện nêu gương đã được ban hành một cách có hệ thống như: Quy định số 101-QÐ/TW, ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCH Trung ương...
     Sau Đại hội XIII của Đảng, các quy định mới có liên quan đến nội dung giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng và nêu gương của cán bộ, đảng viên đã được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung như: Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 114-QĐ/TW, ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17/11/2022 Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
     Như vậy, những nội dung về giáo dục đạo đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được quy định trong hàng loạt các văn bản của Đảng, nhưng để kịp thời cập nhật, bổ sung theo hướng giúp cán bộ, đảng viên dễ đọc, dễ hiểu và dễ thực hiện thì việc Bộ Chính trị ban hành Quy định số 144-QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới (Quy định số 144-QĐ/TW) là rất phù hợp và cần thiết.
     2. Quy định số 144-QĐ/TW có những nội dung nổi bật đáng chú ý như sau:
     Thứ nhất, về sự cần thiết ban hành chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
     Quy định số 144-QĐ/TW chính là sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng và là bước cụ thể hóa nhiệm vụ về xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng mà Đại hội XIII của Đảng đề ra.
     Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là:
     Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường.
     Tận trung với nước. Tận hiếu với dân.
     Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”(1).
     Đối với đội ngũ đảng viên, Người yêu cầu: “Người đảng viên - dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng”(2); “Phải giữ vững đạo đức cách mệnh, là chí công vô tư”(3); “Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo”(4)...
     Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhấn mạnh nội dung giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Các quy định của Đảng về đạo đức cách mạng qua các thời kỳ đã chứng minh cho nội dung này và gần đây, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Đảng ta nêu rõ, một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng là bằng phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
     Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương. Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan toả, thúc đẩy các phong trào cách mạng. Coi trọng kiểm tra, giám sát trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định nêu gương”(5).
     Về nhiệm vụ, văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội”(6).
     Trong cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: So với “tham nhũng” thì “tiêu cực” có nghĩa rộng hơn, do đó, phải xác định phạm vi của tiêu cực mà chúng ta cần tập trung phòng, chống là những hành vi có liên quan đến tham nhũng; đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, là loại biểu hiện cụ thể của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tham nhũng và tiêu cực, nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có mối quan hệ gắn bó mật thiết, chặt chẽ với nhau; nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tiêu cực là môi trường làm nảy sinh tham nhũng; tham nhũng tác động trở lại làm trầm trọng hơn tình trạng tiêu cực. Nếu chỉ phòng, chống tham nhũng về tiền bạc, tài sản thôi thì chưa đủ, mà nguy hại hơn là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống .... Vì vậy, phòng, chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, tức là trị tận gốc của tham nhũng(7).
     Thứ hai, về bố cục, kết cấu.
     Quy định số 144-QĐ/TW kết cấu thành 6 điều. Nội dung của Điều 1 đến Điều 5 là sự cụ thể hóa chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Điều 6 là quy định về tổ chức thực hiện. Nội dung các chuẩn mực đạo đức cách mạng trong Quy định này có tính cô đọng, khái quát và dễ hiểu.
     Nội dung của từng điều về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên lại được cụ thể hóa thành từng khoản gắn với tên gọi của từng chuẩn mực đạo đức đã nêu ở tên từng điều. Chính xác hơn là từ nội dung cụ thể của 5 điều đã được cụ thể hóa thành 19 chuẩn mực đạo đức cách mạng mà mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tuân thủ.
     Thứ ba, tìm hiểu một số nội dung cụ thể trong Quy định số 144-QĐ/TW.
     Nội dung cơ bản của Điều 1 - Yêu nước, tôn trọng Nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc.
     Điều 1 được cụ thể hóa thành 3 khoản tương ứng với các mệnh đề của tên điều như nội dung khoản 1 chính là cụ thể hóa nội dung “yêu nước” có nội hàm là gì. Đó là “1. Suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng; nêu cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của Đảng; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”.
     Tương tự như vậy, chuẩn mực tôn trọng nhân dân được cụ thể hóa thành khoản 2 và điểm đáng chú ý chính là: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh”. Đây chính là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, về nội dung này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(8).
     Chuẩn mực “tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc” được cụ thể hóa thành khoản 3 với 2 yêu cầu rất rõ ràng là “Đặt lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích chung của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân lên trên hết, trước hết” và “kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành vi gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân”.
     Nội dung cơ bản của Điều 2 - Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập.
     Điều 2 được thiết kế thành 4 khoản tương ứng với nội hàm của từng chuẩn mực. Tinh thần bao trùm của Điều 2 chính là nội dung về “bản lĩnh”.
     Chuẩn mực bản lĩnh được cụ thể hóa thành khoản 1 với 3 yêu cầu là “kiên định” với 4 nội dung về nền tảng tư tưởng, mục tiêu, đường lối đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng; “kiên quyết, kiên trì” bảo vệ nền tảng tư tưởng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và “thực hiện nghiêm” các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
     Chuẩn mực “đổi mới” được diễn đạt ở khoản 2 theo tinh thần “độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ý chí vươn lên, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần phát triển đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị”.
     Khoản 3 cụ thể hóa “sáng tạo” theo tinh thần cán bộ “6 dám” mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu thời gian gần đây: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thách thức, hành động vì lợi ích chung, vì nước, vì dân”. Muốn đổi mới, sáng tạo thì chắc chắn cán bộ, đảng viên rất cần có bản lĩnh.
     Khoản 4 cụ thể hóa chuẩn mực về “hội nhập” theo tính thần đề cao tính tích cực, chủ động “hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng theo đường lối đối ngoại của Đảng phù hợp với luật pháp quốc tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng cộng đồng vì hoà bình, ổn định, tiến bộ và phát triển”.
     Nội dung cơ bản của Điều 3 - Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
     Các nội dung cụ thể của Điều 3 được cụ thể hóa thành 5 khoản rất cụ thể trên tinh thần kế thừa các chuẩn mực về cần, kiệm, liêm, chính mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra và có cập nhật những yêu cầu mới cho phù hợp. Khoản 1 bên cạnh việc lý giải về nội dung “Cần” còn đưa ra mục tiêu là góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
     Khoản 3 sau khi giải thích về nội dung “Liêm” còn đưa ra yêu cầu về “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, suy  thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”.
     Quy định của khoản 4 về “Chính” có tính cập nhật khi đưa ra chuẩn mực về “Trung thực, thẳng thắn, khách quan, công tâm, tích cực đấu tranh tự phê bình và phê bình, không giấu khuyết điểm, không nói sai sự thật”; còn đưa ra yêu cầu về việc cán bộ, đảng viên phải dũng cảm “thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh”.
     Khoản 5 về “chí công vô tư” có nhiều nội dung mới rất đáng chú ý. Bên cạnh việc yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tự mình rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện việc “giữ gìn phẩm giá của người cán bộ, đảng viên, không để tác động lôi kéo, cám dỗ tiêu cực”, “Thực hiện văn hoá từ chức khi không đủ khả năng, uy tín” thì còn yêu cầu trách nhiệm về nêu gương và vận động gia đình, người thân và người khác thực hành đạo đức cách mạng: “Không để gia đình, người thân và người khác lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi; bảo vệ uy tín, danh dự của bản thân và tổ chức đảng”.
     Nội dung cơ bản của Điều 4 - Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm.
     Quy định của Điều 4 dành khoản 1 nói về đoàn kết với hai nội dung chính là “Luôn luôn giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, cơ quan, tổ chức và trong Nhân dân, trước hết là ở chi bộ, cơ quan, đơn vị công tác, khu dân cư” và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện”.
     Khoản 2 đề cập về nội dung “kỷ cương” với yêu cầu về việc thực hành “nói đi đôi với làm”, tuân thủ các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Điều cần lưu ý là nội dung về “kỷ cương” yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải giữa nghiêm kỷ luật phát ngôn cũng như “phục tùng sự phân công của Đảng, của tổ chức” vì những nội dung này đang có biểu hiện vi phạm khá nhiều thời gian gần đây.
     Khoản 3 thể hiện tính nhân văn và đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam: “Sống có nghĩa tình, chân thành, thương yêu, đối xử, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp và mọi người theo lẽ phải, phù hợp với đạo lý dân tộc, cùng nhau tiến bộ”.
     Khoản 4 về chuẩn mực “trách nhiệm” đã làm rõ các yêu cầu về trách nhiệm công tác và sinh hoạt; sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “Kiên quyết đấu tranh, phê phán mọi hành vi né tránh, đùn đẩy, hoặc có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, làm việc cầm chừng, sợ trách nhiệm, không dám làm”.
     Thời gian vừa qua, tình trạng sợ trách nhiệm, không dám hành động vì lợi ích chung trong một bộ phận cán bộ, công chức là rất đáng lo ngại, gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức về trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, Quy định số 144-QĐ/TW nhấn mạnh nội dung “trách nhiệm” là rất cần thiết và góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng sợ trách nhiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
     Về nguyên nhân của bệnh sợ trách nhiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có lợi cho tôi thì tôi tích cực; không có lợi cho tôi thì tôi tiêu cực. Tôi muốn có địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm”. Người yêu cầu: “...quyết không vì lợi riêng mà hại đến lợi chung. Mọi việc đều để lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên hết”(9).
 
 
     Nội dung cơ bản của Điều 5 - Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời.
     Quy định số 144-QĐ/TW dành khoản 1 và 2 để cụ thể hóa chuẩn mực “gương mẫu” vì mỗi cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu tiên phong về lý luận và tiên phong về hành động thực tiễn. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (tháng 2/1848), C.Mác và Ph.Ănghen đã khẳng định: “về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”(10).
     Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(11). Chính vì vậy, hoàn thiện các quy định của Đảng Cộng sản Việt Nam và phát huy phương thức lãnh đạo bằng sự nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên hơn lúc nào hết cần được mỗi cán bộ, đảng viên hiểu đúng và thực hiện có hiệu quả trong thực tế: “Cán bộ, đảng viên chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, cấp trên gương mẫu trước cấp dưới, cấp uỷ gương mẫu trước đảng viên, đảng viên gương mẫu trước quần chúng”.
     Nội dung gương mẫu của cán bộ, đảng viên không chỉ dừng lại ở việc tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của bản thân mà còn “Tích cực vận động, thuyết phục gia đình, người thân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
     Bên cạnh chuẩn mực cụ thể về gương mẫu, Quy định số 144-QĐ/TW còn cụ thể hóa chuẩn mực “khiêm tốn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Người cách mạng mẫu mực phải khiêm tốn, khoan hoà, lượng thứ, can đảm khi sa cơ, bình tĩnh khi thắng thế, không bao giờ được quên rằng cuộc đời mình và sự nghiệp của mình thuộc về toàn nhân loại chứ không thuộc về mình”(12).
     Gương mẫu cùng với khiêm tốn chính là yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải “không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực công tác. Nói đi đôi với làm, làm đi đôi với nói, đã nói là làm”.
     Nội dung của khoản 3 chính là sự tiếp nối tinh thần của Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17/11/2022 Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới: “Mọi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công của Đảng; giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân; học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất, lối sống; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng”.
     Điều 6 bên cạnh nội dung về tổ chức thực hiện, trách nhiệm của các cấp, các ngành các cơ quan đơn vị, đã yêu cầu “Cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần gương mẫu, thực hiện nghiêm Quy định này”.
     Lời nói phải đi đôi với việc làm; luôn nhất quán giữa lời nói và hành động, phát ngôn đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hiểu rõ và thực hiện nghiêm các chuẩn mực về đạo đức cách mạng chính là thể hiện rõ niềm tin vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng “cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, “vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra trong bài viết kỷ niệm 94 năm thành lập Đảng.
     Quy định số 144-QĐ/TW đã đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn đối với việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay; góp phần loại bỏ những vướng mắc, bất cập nảy sinh từ thực tế nhưng chưa có quy định để điều chỉnh; thiết thực đưa chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới vào cuộc sống. Đặc biệt, Quy định số 144-QĐ/TW còn là tiêu chuẩn, thước đo, góp phần nâng cao hiệu quả công tác nhận xét, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên; là cơ sở để cấp ủy đảng các cấp xem xét, đánh giá, lựa chọn cán bộ, đảng viên đưa vào quy hoạch, giới thiệu bầu cấp ủy khóa mới; là tiền đề quan trọng trong việc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng./.
 
PGS. TS. LÊ VĂN CƯỜNG
Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
 
____________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2011, t.9, tr.354.
(2) (3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.55, 54, 177.
(5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2021, t.I, tr.183-184, 184.
(7) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2023, tr.16.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.51.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.467.
(10) C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995, t.4, tr.614-615.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.284.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.514.
Nguồn https://tuyengiao.vn/nhung-diem-cot-loi-trong-quy-dinh-144-qd-tw-ve-chuan-muc-dao-duc-cach-mang-cua-can-bo-dang-vien-trong-giai-doan-moi-154966
 
 
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG BIỆN PHÁP HÒA BÌNH
CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG ĐÚNG ĐẮN CỦA VIỆT NAM
 
     Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.
Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết
     Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.
     Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.
 
 
Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 19 tại Singapore ngày 11-6-2022.
Ảnh minh họa: qdnd.vn
 
     Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.
     Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.
Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
     Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.
     Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
     Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...
Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.
     Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.
Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
     Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
     Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.
     Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.
     Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
     Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.
     Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
     Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.
     Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.
     Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.
     Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
     Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
     Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
     Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới.
     Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.
Đại tá, ThS NGUYỄN MINH THÀNH,
Khoa Lịch sử nghệ thuật quân sự, Học viện Chính trị
Nguồn: https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/giai-quyet-tranh-chap-bang-bien-phap-hoa-binh-chinh-sach-quoc-phong-dung-dan-cua-viet-nam-783452

Tin liên quan

Thống kê khách truy cập
-Đang truy cập: 1879
-Đã truy cập: 1.578.532
+Hôm nay 2.441
+Tháng này 135.666
+Tháng trước

Liên kết