XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Kinh nghiệm trong việc phát hiện và tổ chức thực hiện kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên

03-01-2023 17:26

      Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta đã khẳng định: “Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng”, do đó “Lãnh đạo phải có kiểm tra, lãnh đạo mà không có kiểm tra, thì coi như không có lãnh đạo”. Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chấp hành không nghiêm chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xác định rõ tầm quan trọng đó, thời gian qua, công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm đã được cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả hơn, bước đầu đã kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa, răn đe những vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.

     Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, UBKT các cấp đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm được 180 tổ chức đảng và 324 đảng viên, trong đó UBKT Tỉnh ủy kiểm tra được 08 tổ chức đảng và 25 đảng viên. Qua kiểm tra, kết luận: Có 79 tổ chức đảng và 244 đảng viên có vi phạm, trong đó, phải thi hành kỷ luật 04 tổ chức ( hình thức kỷ luật khiển trách đến cảnh cáo) và 124 đảng viên ( hình thức kỷ luật khiển trách đến khai trừ)
     Trong năm 2021 và 6 tháng đầu năm 2022, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã kiểm tra 44 tổ chức đảng, 132 đảng viên, trong đó UBKT Tỉnh ủy kiểm tra 14 tổ chức đảng và 38 đảng viên. Qua kiểm tra đã kết luận : Có 21 tổ chức đảng, 68 đảng viên vi phạm.
     Nội dung chủ yếu kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; công tác quản lý cán bộ; công tác quản lý, sử dụng đất đai và quản lý tài chính. Đạt được những kết qua trên, là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy đảng, sự nỗ lực thực hiện có hiệu quả của UBKT các cấp; Trung ương và Tỉnh ủy đã ban hành nhiều văn bản về công tác kiểm tra, giám sát, là căn cứ pháp lý để thực hiện đồng bộ công tác này, như: Quyết định số 1319-QĐ/UBKTTW, ngày 10/6/2013 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Quy định về phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; Chỉ thị số 16-CT/TU, ngày 03/8/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng giai đoạn 2017 - 2020 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 41-NQ/TU, ngày 05/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, giai đoạn 2021 – 2025; cấp ủy, UBKT các cấp tăng cường tuyên truyền, phổ biến, quán triệt về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; quy trình các bước tiến hành kiểm tra được UBKT Trung ương quy định thống nhất từ Trung ương đến cơ sở;
     Quá trình thực hiện kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm nhận thấy: Đa số các cấp ủy được kiểm tra luôn tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn kiểm tra thực hiện nhiệm vụ; phần lớn các đối tượng được kiểm tra đã tự giác chấp hành, nhận trách nhiệm về những khuyết điểm, sai phạm của mình và có những biện pháp để khắc phục sửa chữa khuyết điểm, vi phạm; đội ngũ làm công tác kiểm tra từng bước được kiện toàn, bổ sung, có năng lực, bản lĩnh chính trị, thực hiện hoàn thành nhiệm vụ.
     Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể thì kết quả thực hiện kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phục vụ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Những hạn chế đó là:
     - Một số cấp ủy và UBKT đảng ủy cơ sở nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm nên chưa thực sự quan tâm trong lãnh đạo chỉ đạo thực hiện; kết quả kiểm tra chưa phản ánh đúng với thực tế vi phạm; chưa xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình, dẫn đến chất lượng, hiệu quả kiểm tra còn thấp, chưa giải quyết kịp thời được những vấn đề phức tạp, bức xúc trên địa bàn mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm.
     - Cán bộ làm công tác kiểm tra ở cơ sở chủ yếu là kiêm nhiệm, do đó về mặt nghiệp vụ và khả năng phát hiện, tổng hợp, phân tích, đánh giá còn hạn chế, lúng túng trong việc xác định đối tượng kiểm tra, chưa kịp thời quyết định kiểm tra khi còn manh nha, chỉ khi sai phạm đã rõ, gây dư luận xấu trong xã hội mới tiến hành kiểm tra. Công tác nắm tình hình, phát hiện có dấu hiệu vi phạm để kiểm tra chưa chủ động, toàn diện. Một số Ủy ban kiểm tra cơ sở còn lúng túng trong thực hiện quy trình, thủ tục trong công tác kiểm tra, xác minh nên khi kết luận chưa thể hiện được tính khách quan, toàn diện, chặt chẽ.
     - Một số cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đúng về công tác kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, cho rằng kiểm tra có dấu hiệu vi phạm là có vi phạm, việc này ảnh hưởng đến uy tín của tập thể và cá nhân. Một số ít cán bộ, đảng viên còn thiếu tinh thần cầu thị hợp tác, còn bao biện, che dấu khuyết điểm trong quá trình đoàn kiểm tra thực hiện, dẫn đến việc thẩm tra xác minh gặp khó khăn, làm kéo dài thời gian thực hiện.
     Nguyên nhân chủ yếu là do một số cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp chưa nhận thức đầy đủ, chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa chủ động phát hiện khi có dấu hiệu vi phạm từ nhiều nguồn thông tin, thiếu chủ động trong việc nắm tình hình, có cán bộ đảng viên chưa nhận thấy được những sai phạm của mình, phần nhiều đổ lỗi cho nguyên nhân khách quan dẫn đến vi phạm để giảm mức độ vi phạm, từ đó hiệu quả, chất lượng một số cuộc kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra; bên cạnh đó nhiệm vụ giám sát, nhất là giám sát thường xuyên, nắm tình hình địa bàn của UBKT, của cán bộ kiểm tra nói chung còn yếu; nhiều nơi cán bộ được phân công theo dõi địa bàn nhưng chưa sâu sát, năng lực hạn chế nên việc nắm bắt tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm còn gặp nhiều khó khăn, chưa kịp thời.
     Từ thực tiễn thực hiện công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm của UBKT Tỉnh ủy rút ra một số bài học kinh nhiệm như sau:
     Một là, Cấp ủy, UBKT các cấp cần nhận thức đầy đủ về nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; xác định công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là một nhiệm vụ quan trọng để ngặn chặn kịp thời những sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên, nhằm xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; Cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của UBKT, tạo điều kiện để UBKT thực hiện đúng quy chế làm việc; thường xuyên nghe UBKT báo cáo tình hình hoạt động và kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; quan tâm củng cố, kiện toàn UBKT, cơ quan UBKT và chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra đảng để xây dựng tổ chức UBKT các cấp vững mạnh, đảm bảo hoạt động chất lượng, hiệu quả.
     Hai là, Công tác kiểm tra phải chủ động đi trước, xác định nội dung kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm, dư luận xã hội quan tâm như công tác cán bộ, quản lý tài chính, quản lý, sử dụng đất đai… UBKT phải chủ động, kịp thời vào cuộc ngay từ đầu để phát hiện dấu hiệu vi phạm; xác định đối tượng, nội dung vi phạm để tiến hành kiểm tra. Việc quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm phải chủ động, kịp thời, chọn đúng thời điểm, đúng nội dung kiểm tra. Hoạt động của Ủy ban kiểm tra phải dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của đảng viên, phát huy trách nhiệm xây dựng đảng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; làm tốt công tác thẩm tra, xác minh, thực hiện đúng nguyên tắc: “Chứng cứ đến đâu, kết luận đến đấy, không suy diễn, không áp đặt, không thành kiến”; vận dụng linh hoạt, sáng tạo, hình thức kiểm tra phù hợp với từng đối tượng và thực hiện nghiêm túc quy trình kiểm tra theo quy định. Đối với những trường hợp đối tượng kiểm tra có tinh thần tự phê bình yếu, thiếu tự giác né tránh trách nhiệm, thì chủ thể kiểm tra cần làm tốt công tác tư tưởng, phương pháp kiểm tra phải thật sáng tạo, kết hợp làm tốt công tác thẩm tra, xác minh nắm bắt về khuyết điểm, vi phạm của đối tượng kiểm tra để thuyết phục, đồng thời kiên quyết đấu tranh để đối tượng kiểm tra thay đổi thái độ tự phê bình, tự giác nhận khuyết điểm, vi phạm của mình
     Ba là, Ủy ban kiểm tra các cấp phải thường xuyên nắm bắt tình hình bằng nhiều kênh thông tin như: quan sát thường xuyên, giám sát chuyên đề, qua đơn thư phản ánh, khiếu nại, tố cáo, nhất là bám sát cơ sở; đồng thời nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của cấp ủy viên, ủy viên ủy ban kiểm tra các cấp, trong việc chủ động thường xuyên thu thập, lựa chọn, xử lý các nguồn thông tin, nắm chắc các hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên thuộc đối tượng giám sát để sớm phát hiện các dấu hiệu vi phạm. Từ đó, tham mưu cho cấp ủy, UBKT xem xét, quyết định kiểm tra kịp thời, ngăn chặn những hành vi vi phạm ngay từ khi còn manh nha.
     Bốn là, cán bộ kiểm tra phải nắm chắc quy trình nghiệp vụ, tích cực nghiên cứu, học tập để nắm vững Điều lệ Đảng, chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ được giao; trong quá trình thẩm tra, xác minh phải công tâm, khách quan, xem xét kỹ tính chất, mức độ, nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến khuyết điểm vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Khi xem xét phải đảm bảo thấu tình, đạt lý, đảm bảo tính thuyết phục, tính giáo dục và tính chiến đấu.
     Năm là, thực hiện tốt công tác phối hợp với các cơ quan có liên quan, UBKT Tỉnh ủy đã có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với các tổ chức đảng, cơ quan liên quan để nhanh chóng có nguồn thông tin toàn diện về nội dung tài liệu, chứng cứ,... liên quan đến vụ việc kiểm tra. Đây là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
     Từ những kinh nghiệm thực tế nêu trên, để thực hiện tốt hơn công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm trong thời gian tới, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đề nghị cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
     Thứ nhất, Cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra cần tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quán triệt, phổ biến nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp, nhất là người đứng đầu về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, từ đó có nhận thức đúng, đầy đủ và quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phát hiện dấu hiệu vi phạm, tạo điều kiện thuận lợi để UBKT thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 41-NQ/TU, ngày 05/8/2021, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, giai đoạn 2021 – 2025.
     Thứ hai, tăng cường công tác giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề, phân công cán bộ phụ trách địa bàn, lĩnh vực để nắm bắt thông tin, tình hình, kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm để chuyển sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên. Thực hiện tốt Quy định về phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, ban hành kèm theo Quyết định số 1319-QĐ/UBKTTW, ngày 10/6/2013 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
     Thứ ba, Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố kiện toàn đội ngũ cán bộ UBKT các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng , thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra, nhất là những kiến thức, kinh nghiệm mới về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin gắn với đổi mới phương pháp, lề lối làm việc.
     Thứ tư, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm để tìm ra những hình thức, phương pháp kiểm tra mới có hiệu quả, phù hợp.
 
     Nhiệm vụ đặt ra cho công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của Đảng trong thời gian tới là hết sức nặng nề, đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp phải có quyết tâm chính trị cao và cần đổi mới trong thực hiện. Phát huy kết qủa đạt được , Tôi tin tưởng rằng, công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm sẽ đạt được nhiều kết quả tốt đẹp hơn, thực hiện có hiệu quả  Nghị quyết số 41-NQ/TU, ngày 05/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, giai đoạn 2021 – 2025.
Trần Thanh Hải, Tỉnh uỷ viên, Bí thư Chi bộ, Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ
 

Tin liên quan