Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ

TIN TỔNG HỢP THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN THÁNG 9/2021

01-09-2021 14:35

 

    I. NỘI DUNG MỘT SỐ PHÁT BIỂU QUAN TRỌNG

  CỦA CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 
     1. Ngày 09/8/2021, nhận lời mời của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, Chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (HĐBA LHQ), tối ngày 09/8, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tham dự phiên Thảo luận mở cấp cao trực tuyến với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế” do Thủ tướng Ấn Độ chủ trì. Đây là lần đầu tiên HĐBA LHQ tổ chức một cuộc họp chính thức riêng về chủ đề an ninh biển. Phát biểu tại phiên thảo luận, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh biển và đại dương là nguồn tài nguyên to lớn của nhân loại, là huyết mạch của giao thương quốc tế, cửa ngõ kết nối các quốc gia có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia, dân tộc; khẳng định Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 là Hiến pháp về biển và đại dương có tính toàn vẹn và phổ quát, điều chỉnh tất cả các hoạt động trên biển, và là cơ sở hợp tác quốc tế nhằm giải quyết các thách thức chung. Thủ tướng cho rằng thế giới đang phải đối mặt với những thách thức an ninh trên biển ngày càng phức tạp như khủng bố, tội phạm có tổ chức, ô nhiễm môi trường biển, những hành vi vi phạm luật pháp quốc tế trên biển, thậm chí đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, làm ảnh hưởng đến hòa bình, hữu nghị, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, giao thương cũng như những nỗ lực chung xử lý các thách thức an ninh biển. Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu 3 đề xuất quan trọng để ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh biển.
     Thứ nhất, cần có nhận thức toàn diện và đầy đủ về tầm quan trọng của biển và những nguy cơ đe dọa an ninh biển, đề cao trách nhiệm và quyết tâm chính trị, củng cố lòng tin, xây dựng cơ chế hợp tác chặt chẽ, hiệu quả hơn nữa bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định trên biển, khai thác bền vững nguồn lợi từ biển.
     Thứ hai, an ninh biển là vấn đề toàn cầu nên cần có giải pháp toàn cầu; tiếp cận một cách toàn diện, tổng thể trên cơ sở hợp tác đối thoại và luật pháp quốc tế, tăng cường hợp tác ở mọi cấp độ và khuôn khổ nhằm ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh biển. Trên tinh thần đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề xuất thiết lập một mạng lưới các cơ chế, sáng kiến về an ninh biển khu vực do LHQ điều phối để tăng cường chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, phối hợp hành động, kịp thời ứng phó với các thách thức chung. Việt Nam đánh giá cao vai trò và đang tích cực tham gia các sáng kiến, cơ chế hợp tác thực chất trong khuôn khổ ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác về an ninh biển ở khu vực Biển Đông, giúp tạo diễn đàn đối thoại, xây dựng lòng tin, góp phần điều phối hợp tác về an ninh trên biển ở khu vực.
     Thứ ba, chính sách, pháp luật và ứng xử của các quốc gia cần tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương LHQ và Công ước Luật Biển 1982, tôn trọng quyền, lợi ích và hoạt động kinh tế hợp pháp của các quốc gia ven biển, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý, và bảo đảm tự do, an toàn, an ninh hàng hải và hàng không, tránh có các hoạt động làm phức tạp tình hình, gây căng thẳng.
     Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, là một quốc gia ven biển, Việt Nam nhận thức rất sâu sắc giá trị to lớn của biển cũng như những thách thức đặt ra đối với an ninh biển. Ở cấp độ quốc gia, Việt Nam đang triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển để khai thác bền vững và có trách nhiệm các nguồn lợi từ biển phục vụ phát triển, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, bảo đảm xử lý tốt các vấn đề trên biển, đóng góp tích cực vào duy trì môi trường hòa bình, an ninh, sinh thái và phát triển bền vững ở khu vực và trên thế giới. Nhân dịp này, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam quyết tâm cùng ASEAN và Trung Quốc thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đồng thời đàm phán xây dựng tiến tới đạt được bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu lực, và phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển 1982.
     Tại Phiên thảo luận, HĐBA cũng đã thông qua Tuyên bố Chủ tịch HĐBA với nội dung chính là kêu gọi tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực nhằm ứng phó với các thách thức an ninh, an toàn biển; ghi nhận ý nghĩa và tầm quan trọng của Công ước Luật Biển năm 1982; khuyến khích LHQ và cộng đồng quốc tế tiếp tục hỗ trợ các quốc gia nâng cao năng lực và chia sẻ kinh nghiệm trong xử lý các nguy cơ về an ninh biển./.
     2. Ngày 11/8/2021, Chính phủ khóa XV họp phiên đầu tiên để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Phát biểu chỉ đạo phiên họp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng đây là một phiên họp có ý nghĩa rất quan trọng về nhiều phương diện nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Phiên họp diễn ra vào thời điểm có nhiều sự kiện lớn của đất nước, thể hiện sự phối hợp rất nhịp nhàng, ăn khớp của cả hệ thống chính trị ở nước ta, sự đoàn kết nhất trí cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trải qua hơn 75 năm, với 15 nhiệm kỳ hoạt động, dưới nhiều tên gọi khác nhau, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà trước đây cũng như Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay đã luôn luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, không ngừng phát huy vai trò, vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý, điều hành phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật, có những đóng góp to lớn và quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Nhìn một cách tổng thể, mỗi nhiệm kỳ của Chính phủ đều để lại những dấu ấn riêng và đều hoàn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật; hoạch định chính sách và trình dự án luật, pháp lệnh; quản lý nhà nước, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển văn hoá, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, thông tin và truyền thông; thực hiện các chính sách xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo; bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế...“Những thành tựu đạt được của Chính phủ trong 75 năm qua bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta - nhân tố quyết định để Chính phủ hoàn thành xuất sắc trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó. Chính phủ các khoá đã luôn luôn nắm vững đường lối, quan điểm và các chủ trương, chính sách của Đảng để cụ thể hoá và thể chế hoá thành luật pháp và vận dụng đúng đắn vào các hoạt động của Chính phủ”.
     Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp, nhất trí cao đề ra Chiến lược xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, trong đó có Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Hội nghị Trung ương 3 vừa qua đã kiện toàn một bước các nhân sự chủ chốt trong hệ thống chính trị, ban hành Kết luận về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính quốc gia, đầu tư công trung hạn 5 năm 2021 - 2025 và đã được Quốc hội khoá XV nhất trí cao, thể chế hoá tại Kỳ họp thứ nhất mới đây. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang khẩn trương, tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và các kết luận của Trung ương trong bối cảnh, tình hình có nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn trước và gay gắt hơn so với dự báo. Cụ thể, từ đầu năm đến nay, cả nước vẫn phải tiếp tục nỗ lực, quyết liệt chống dịch COVID-19; đợt bùng phát dịch lần thứ tư lây lan rất nhanh, hết sức nguy hiểm, phức tạp, khó kiểm soát và có thể còn tiếp tục kéo dài; thậm chí vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát các đợt dịch mới. Kinh tế - xã hội nước ta tuy tiếp tục phát triển, đạt được nhiều kết quả tích cực so với cùng kỳ năm 2020 nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra. Sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân, nhất là ở những vùng có dịch và những ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch gặp nhiều khó khăn, thách thức.
     Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội XIII, Hội nghị Trung ương 3 của Đảng và Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá XV đã đề ra, Tổng Bí thư nêu rõ Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 cần tiếp tục phát huy mạnh hơn nữa, tốt hơn nữa truyền thống vẻ vang, những kết quả, thành tích to lớn và những bài học kinh nghiệm quý báu mà Chính phủ qua các thời kỳ đã đạt được; nỗ lực phấn đấu cao hơn nữa trên con đường đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động trong giai đoạn phát triển mới. Tập trung ưu tiên thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, xử lý dứt điểm những "điểm nghẽn", vướng mắc, tồn tại để phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn trên cơ sở tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục có hiệu quả tác động của đại dịch COVID-19, nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế.
     Phát huy mạnh mẽ các giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam và sức sáng tạo của mỗi cá nhân; từng bước xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân; chú trọng bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong quá trình này, cần luôn luôn quan tâm nghiên cứu, nắm chắc và quán triệt thật sâu sắc các vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, có tính nguyên tắc rất quan trọng đã được thể hiện trong Cương lĩnh, đường lối cơ bản của Đảng ta về cách mạng nước ta. Đặc biệt là 4 vấn đề lớn về: phát triển kinh tế; phát triển văn hoá, xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ.
     Thứ nhất, về phát triển kinh tế, mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
     Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế hỗn hợp, đa sở hữu, nhất là các doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
     Thứ hai, về phát triển văn hoá, xã hội, một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
     Coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội và xác định phát triển văn hoá đồng bộ, tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội cũng là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hoá mà Việt Nam xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn.
     Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.
Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
     Thứ ba, về tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Tổng Bí thư nêu rõ: Tình hình thế giới, trong nước đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quan tâm giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh theo đúng phương châm: "phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên". Trong mọi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải luôn luôn quan tâm vấn đề quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng thực chất và đi vào chiều sâu. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
     Thứ tư, về xây dựng tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ, đây là vấn đề cơ bản, rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động của Chính phủ. Vì vậy, Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền các cấp cần đặc biệt quan tâm, làm tốt hơn nữa công tác này, thực hiện nghiêm Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật khác có liên quan nhằm xây dựng tổ chức, bộ máy và cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn vững vàng.
     Đồng thời, tiếp tục thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", gắn với việc đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thực chất. Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
     Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hoá, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gắn với đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để "không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng". Đồng thời, chấn chỉnh, đấu tranh loại bỏ tư tưởng bàn lùi, vin cớ rằng việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ cản trở sự phát triển, làm nhụt chí dẫn đến làm "cầm chừng", "phòng thủ", "che chắn", giữ "an toàn" trong một bộ phận cán bộ, công chức nào đó, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
     “Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; với sự nỗ lực, cố gắng, quyết tâm cao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và cơ quan trực thuộc Chính phủ; với sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; sự ủng hộ và giám sát của nhân dân; sự hợp tác và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2025 nhất định sẽ phát huy những kết quả, kinh nghiệm và truyền thống vẻ vang của 75 năm qua, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tổ chức và phương thức hoạt động, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp to lớn hơn nữa vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xứng đáng với vị trí, vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là cơ quan trực tiếp tổ chức, quản lý, triển khai thực hiện có hiệu quả mọi chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, biến đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực sinh động, mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, làm vẻ vang cho Dân tộc, cho giống nòi”.
     3. Ngày 16/8/2021, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với các tổ chức thành viên tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tuyến tới 64 điểm cầu tại Thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành phố trên cả nước, với sự tham dự của khoảng 2.000 đại biểu. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng với nhan đề: "Phát huy truyền thống đại đoàn kết, huy động sức mạnh của toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”
     Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định nhiệm vụ phát triển của đất nước không chỉ cho những năm trước mắt mà cho cả một giai đoạn đến năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước, phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện được mục tiêu cơ bản, quan trọng đó, theo Tổng Bí thư không có cách nào khác là phải phát huy được sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu với vai trò là tổ chức đại diện của nhân dân, là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên cần làm tốt hơn nữa vai trò là nòng cốt chính trị, có trách nhiệm trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, xây dựng đồng thuận xã hội để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính trị của đất nước trong giai đoạn mới. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ phải là ba chân kiềng vững chắc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đề cập một trong những nhiệm vụ cơ bản trong thời gian tới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu cần tiếp tục nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, và chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tiếp tục đề cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước về thực hành phong cách dân vận theo tấm gương, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân"; "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin", thực sự vì nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Tổng Bí thư nhấn mạnh muốn vận động nhân dân thì trước hết mỗi công chức, đảng viên phải thực sự gương mẫu, thông qua hoạt động của Mặt trận và đoàn thể để đến với nhân dân, xem đó là cơ hội để gần dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân; kiểm nghiệm xem các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước có đến được với nhân dân hay không, có thuận lòng dân hay không.

II. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NỔI BẬT TRONG TỈNH

     1. Ngày 09/8/2021, Hội nạn nhân chất độc da cam (NNCĐDC)/Dioxin tỉnh tổ chức kỷ niệm 60 năm thảm họa da cam ở Việt Nam  (10/8/1961-10/8/2021). Đến dự có đồng chí Dương Xuân Huyên, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh. Toàn tỉnh Lạng Sơn có gần 4.000 người hoạt động kháng chiến tại các chiến trường B,C,K nghi bị phơi nhiễm chất độc hóa học. Từ năm 2015 đến nay các cấp Hội NNCĐDC trong tỉnh đã vận động nguồn lực xã hội được gần 6,5 tỷ đồng, duy trì quỹ Hội trên 1 tỷ đồng. Đã hỗ trợ làm mới và sửa chữa 57 nhà, hỗ trợ khám, chữa bệnh cho 86 lượt nạn nhân, 58 suất học bổng cho con cháu nạn nhân được học hành, trích quỹ hơn 170 triệu đồng hỗ trợ cho 17 hộ gia đình nạn nhân có hoàn cảnh khó khăn vay không lãi suất trong để phát triển kinh tế.
     Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Dương Xuân Huyên, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh đã chia sẻ nỗi đau và ghi nhận tinh thần vượt khó của các NNCĐDC. Đồng chí khẳng định, dù điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn nhưng tỉnh Lạng Sơn luôn quan tâm chăm lo công tác an sinh xã hội, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách cho người có công, hàng tháng trợ cấp thường xuyên cho gần 4.000 người có công với kinh phí gần 7,5 tỷ đồng; trong đó, có 798 người là NNCĐDC/Dioxin (439 người là đối tượng trực tiếp, 359 người là con đẻ của họ). Đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh đề nghị: các cấp, các ngành, MTTQ và các đoàn thể trên địa bàn tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về thảm họa da cam ở Việt Nam, tăng cường hơn nữa công tác phối hợp để bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các chế độ, chính sách đối với người bị nhiễm CĐDC; các cấp Hội NNCĐDC trong tỉnh tiếp tục xây dựng, củng cố tổ chức, chăm lo tốt hơn cho các nạn nhân, chú trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động với tinh thần "Đoàn kết - nghĩa tình - trách nhiệm - vì NNCĐDC", nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, chăm sóc, giúp đỡ NNCĐDC có cuộc sống ngày càng tốt hơn cả về vật chất và tinh thần.
     Dịp này, Trung ương Hội NNCĐDC đã tặng Kỷ niệm chương cho 30 cá nhân, tặng Bằng khen cho 5 tập thể và 1cá nhân; Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen cho 8 tập thể, 6 cá nhân; Hội NNCĐDC tỉnh tặng  Giấy khen cho 15 tập thể, 19 cá nhân có thành tích xây dựng tổ chức hội, tuyên truyền và hưởng ứng phong trào thi đua “Vì nạn nhân chất độc da cam” giai đoạn 2015 - 2020... Tại đây, lãnh đạo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh đã đọc thư của UBND tỉnh kêu gọi ủng hộ, đóng góp hỗ trợ NNCĐDC/Dioxin trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn năm 2021, thời gian vận động ủng hộ từ ngày 9/8/2021 đến hết năm 2021, cao điểm từ ngày 10/8/2021 đến ngày 10/9/2021.
     2. Ngày 12/8/2021, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn đã có buổi tiếp xúc cử tri sau kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV bằng hình thức trực tuyến trên địa bàn. Tổng số có 6.218 cử tri tham dự hội nghị tại 212 điểm cầu (điểm cầu chính tại hội trường UBND tỉnh, 11 điểm cấp huyện và 200 điểm cầu cấp xã).
Tham dự hội nghị có đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Triệu Quang Huy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh và các đại biểu Quốc hội tỉnh đang công tác tại địa phương; đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; đồng chí Đoàn Thị Hậu, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; đồng chí Nông Lương Chấn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh; đại diện lãnh đạo các Ban của HĐND tỉnh; đại diện lãnh đạo một số sở, ban, ngành của tỉnh. 
     Tại Hội nghị, đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã báo cáo cử tri về kết quả kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV và những hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tại kỳ họp. Theo đó, kỳ họp lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV diễn ra với tinh thần tích cực, khẩn trương, trách nhiệm, kỳ họp đã rút ngắn được 3 ngày so với kế hoạch đề ra nhằm bảo đảm thực hiện công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19. Trong 9 ngày làm việc, Quốc hội đã ban hành 29 nghị quyết. Quốc hội xem xét các báo cáo về tổng kết công tác bầu cử và kết quả xác nhận tư cách của đại biểu Quốc hội khóa XV; đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm và các giải pháp thực hiện 6 tháng cuối năm 2021; công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2020; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân gửi đến kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV. Trong suốt kỳ họp, Đoàn đã tổ chức được 10 cuộc họp; tham gia 08 lượt họp thảo luận tại tổ; có 02 lượt phát biểu thảo luận tại hội trường và nhiều lượt phát biểu trong các phiên thảo luận tổ; các ý kiến phát biểu đều được các đại biểu nghiên cứu, thống nhất, thảo luận kỹ lưỡng, đúng trọng tâm, trọng điểm theo nội dung chương trình kỳ họp, các ý kiến phát biểu thảo luận đều được cơ quan chủ trì ghi nhận, tiếp thu và đánh giá cao. 
     Tại Hội nghị, đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã phát biểu giải trình và trả lời một số kiến nghị của cử tri thuộc thẩm quyền, đồng thời kiến nghị với Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng, lĩnh vực đầu tư; điều chỉnh quy định, chính sách đối với một số vùng, đối tượng người dân tộc thiểu số và miền núi; điều chỉnh thời gian ban hành các nghị quyết liên quan đến kế hoạch đầu tư công trung hạn, phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia theo giai đoạn,… cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
     Phát biểu ghi nhận, giải trình và tiếp thu các ý kiến kiến nghị của cử tri, đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh thay mặt Đoàn đại biểu Quốc hội đã trân trọng cảm ơn sự tin tưởng, tín nhiệm, trao gửi niềm tin của cử tri dành cho các đại biểu Quốc hội, đồng thời tiếp tục khẳng định các đại biểu Quốc hội sẽ luôn nỗ lực phấn đấu, nêu cao vai trò, trách nhiệm trước cư tri và Nhân dân; tích cực nghiên cứu, học hỏi, nâng cao trình độ năng lực công tác, kỹ năng hoạt động đại biểu, luôn gương mẫu, bản lĩnh, thật sự gắn bó “máu thịt” với Nhân dân; nỗ lực hành động theo phương châm “tận tụy để dân mến, trách nhiệm để dân thương, kỷ cương để dân trọng, năng động để dân nhờ”. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh sẽ tiếp thu, tổng hợp đầy đủ những ý kiến kiến nghị và những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của cử tri và nhân dân, chuyển tải đến Quốc hội để xem xét, thảo luận, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách góp phần bảo đảm phát triển kinh tế, xã hội nhanh và bền vững.
     3. Ngày 13/8/2021, UBND tỉnh tổ chức Hội nghị trực tuyến 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) phân tích kết quả chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước (SIPAS) và chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) tỉnh Lạng Sơn năm 2020. Đồng chí Dương Xuân Huyên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh chủ trì Hội nghị. Dự tại điểm cầu tỉnh có đồng chí Đinh Hữu Học, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, lãnh đạo Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh, các các sở, ban, ngành tỉnh.Theo báo cáo tại Hội nghị, năm 2020, chỉ số SIPAS điều tra xã hội học kết quả giải quyết thủ tục hành chính của 30 cơ quan, đơn vị (6 sở, 6 huyện và 18 xã, phường, thị trấn) với tổng số 454 phiếu khảo sát. Theo kết quả công bố chỉ số SIPAS năm 2020, Lạng Sơn đạt 83,97%, xếp hạng 39/63 tỉnh, thành phố, tăng 2,8% và tăng 7 bậc so với năm 2019. Trong 5 chỉ số thành phần của SIPAS 2020, có 3/5 chỉ số tăng cả về điểm và xếp hạng, 2/5 chỉ số giảm hạng (trong đó có 1 chỉ số giảm cả điểm và xếp hạng) so với năm 2019. Chỉ số PAR INDEX cấp tỉnh năm 2020 được Bộ Nội vụ phối hợp với các Bộ, ngành trung ương thẩm định, đánh giá, công bố; nội dung đánh giá trên 8 lĩnh vực với 43 tiêu chí, 102 tiêu chí thành phần. Năm 2020, Lạng Sơn đạt 83,80/100 điểm, đạt 83,80%, xếp hạng 36/63 tỉnh, thành phố, tăng 6 bậc so với năm 2019; trong 8 chỉ số thành phần, có 4/8 chỉ số tăng cả về điểm số và xếp hạng, 1/8 chỉ số tăng điểm và giữ nguyên xếp hạng, 1/8 chỉ số tăng điểm nhưng giảm xếp hạng, 2/8 chỉ số giảm cả về điểm và xếp hạng so với năm 2019. Phát biểu kết luận, đồng chí Dương Xuân Huyên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh nhấn mạnh, để khắc phục những hạn chế, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cải cách hành chính, lãnh đạo các sở, ban, ngành tỉnh, UBND cấp huyện, xã thời gian tới cần tiếp tục nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cần xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, lấy sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo hiệu quả của công tác quản lý hành chính nhà nước; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành kế hoạch, nhiệm vụ cải cách hành chính do UBND tỉnh ban hành, đồng thời, duy trì các chỉ số đạt điểm tối đa, thăng hạng các chỉ số còn thấp; tiếp tục thực hiện hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó, quan tâm tạo môi trường thông thoáng thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp, công bố công khai đầy đủ, kịp thời các quy định về thủ tục hành chính, tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tăng hiệu quả cải cách tài chính công, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số./.
Tin tổng hợp
 
 
 

 

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP: SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN

     NHỮNG GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG TIẾN BỘ CỦA THỜI ĐẠI

          (TG) - Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại. Đó là văn kiện pháp lý thấm nhuần tư tưởng tiến bộ của thời đại, nêu cao nguyên tắc bình đẳng, dân chủ và các quyền cơ bản của con người, của dân tộc. Trân trọng những giá trị cao cả ấy, trong một thời đại mới và một cuộc cách mạng mới, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và hơn nữa phát triển các giá trị ấy ở hai nội dung cơ bản là quyền con người, quyền dân tộc và nguyên tắc chủ quyền nhân dân.

 
  
         KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN DÂN TỘC

      Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 được ra đời từ sau cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và cuộc đại cách mạng tư sản Pháp. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ thời kỳ Khai sáng, hai bản Tuyên ngôn là những lời khẳng định đầy sức thuyết phục về quyền con người, quyền dân tộc, về nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến chuyên chế hướng con người vươn tới các giá trị dân chủ, giá trị nhân văn cao cả về tự do, bình đẳng, bác ái.

     Các bản Tuyên ngôn khẳng định những quyền con người cơ bản nhất đó là quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền tư hữu tài sản. Đó là “quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng và bất khả xâm phạm của mỗi con người”(1).
     Trong bản Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ, tác giả Thomas Jefferson khẳng định các nước thuộc địa phải có quyền là quốc gia tự do và độc lập và từ việc xóa bỏ quyền thống trị của thực dân Anh, cuộc đấu tranh vì nền độc lập của các bang thuộc địa ở Bắc Mỹ cũng nhằm tới tranh đấu cho các quyền tự nhiên của riêng mỗi con người. Với những giá trị to lớn như vậy hai bản Tuyên ngôn đánh mốc dấu son trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Đó là bản Tuyên ngôn mang đậm giá trị nhân văn, nhân bản, là nền tảng để xây dựng các bản Hiến pháp dân chủ tiến bộ của nước Pháp, nước Mỹ sau đó.
     Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nêu rõ: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”(2).
     Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam, từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những câu nổi tiếng nhất trong hai bản Tuyên ngôn lịch sử đó với thái độ rất trân trọng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền  ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ những giá trị nhân văn cao cả, mang tính phổ quát toàn nhân loại làm cơ sở, mục tiêu cho cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cũng là nhằm thực hiện những quyền chính đáng, thiêng liêng không ai có thể xâm phạm, là sự tiếp nối của lá cờ giải phóng dân tộc, giải phóng con người mà các cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ đã giương cao.
     Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và mở rộng, phát triển vượt bậc những giá trị của các bản Tuyên ngôn trước đó trong thời đại mới.Trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, nguyên bản câu “tất cả mọi người” là “tất cả đàn ông” (All men). Nguyên bản của câu đó là đặt trong bối cảnh nước Mỹ những năm cuối thế kỉ XVIII khi chế độ nô lệ còn tồn tại, sự phân biệt và kỳ thị chủng tộc rất nặng nề, những người đàn ông có quyền mà Tuyên ngôn đề cập đến chỉ là những người đàn ông da trắng. Như vậy, các quyền cơ bản của con người, quyền vốn có ấy lại không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho đàn ông da trắng. Còn với Hồ Chí Minh, Người khẳng định một cách rõ ràng, quyền là dành cho “tất cả mọi người”, không phân biệt địa vị, thành phần, tôn giáo, giới tính, sắc tộc. Đó là sự mở rộng tuyệt đối, đem lại những giá trị to lớn và phù hợp với sự phát triển tiến bộ của nhân loại. 
     Cũng từ việc khẳng định đạo lý và chính nghĩa của nhân loại, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt giả dối, bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp. Trong Tuyên ngôn độc lập, Người đã khái quát một cách sâu sắc tội ác của thực dân Pháp trong gần 100 năm cai trị ở đất nước ta trên tất cả các mặt, đặc biệt là việc chà đạp, tước đoạt quyền các quyền tự nhiên của con người, của dân tộc. Và từ đó, Người khẳng định: trong thời đại mới, không chỉ chế độ phong kiến chuyên chế mà chủ nghĩa thực dân với bản chất tàn bạo của nó cần được xóa bỏ, để bảo vệ quyền và nhân phẩm của con người. Khi còn chủ nghĩa thực dân, còn tình trạng dân tộc này áp bức, nô dịch dân tộc khác thì chắc chắn quyền con người ở các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc bị chà đạp, không được ghi nhận và thực hiện.
     Một điểm đáng chú ý nữa là từ quyền của con người, Hồ Chí Minh đã suy rộng ra quyền dân tộc “các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(3). Từ quyền con người, Người suy rộng ra quyền dân tộc cũng là quyền tự nhiên, thiêng liêng “là lẽ phải không ai chối cãi được”(4). Nếu như trong bản Tuyên ngôn của nước Mỹ đã đề cập đến cả quyền con người, quyền dân tộc, thì đến bản Tuyên ngôn của Việt Nam đã gắn kết hai phạm trù pháp lý cơ bản này trong mối liên hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người và ngược lại thực hiện quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Quyền con người cao nhất chính là được sống trong đất nước tự do, là công dân của một nước độc lập.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh đã mở rộng nội hàm khái niệm quyền dân tộc cả chiều rộng và chiều sâu, mà các bản Tuyên ngôn trước chưa đề cập đến. Xuất phát từ hoàn cảnh nước Việt Nam thuộc địa vừa mới giành độc lập và bối cảnh lịch sử quốc tế bấy giờ, Hồ Chí Minh khẳng định: quyền dân tộc không chỉ là quyền dân tộc tự quyết, mà còn là quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Độc lập dân tộc đã gắn bó mật thiết với các nguyên tắc dân tộc bình đẳng và tự quyết, với quyền sống và quyền hạnh phúc của mỗi dân tộc.Hơn nữa, quyền độc lập, bình đẳng ở đây phải được xác lập trong mối quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt lớn nhỏ, mạnh yếu hay khác nhau về thể chế chính trị. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không còn chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam mà đó còn là sự cổ vũ, lời khẳng định thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc nhỏ yếu đang chịu sự cai trị của chủ nghĩa thực dân.
     Từ quyền con người suy rộng ra quyền dân tộc, Tuyên ngôn độc lập đã góp phần tạo lập và khẳng định một nền pháp lý và công lý mới của văn minh nhân loại, hướng tới công bằng, bình đẳng, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột, bất công trên bình diện quốc gia và quốc tế. Công lý ấy về sau không chỉ trở thành nguyên tắc lập hiến của Việt Nam, của nhiều quốc gia khác mà trở thành điều khoản pháp lý quốc tế khi nó đã được ghi vào Liên hợp quốc với các công ước quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia, về quyền độc lập dân tộc và quyền tự quyết.
     Hai bản Tuyên ngôn nước Pháp, nước Mỹ đề cập đến quyền con người, quyền dân tộc là quyền thiêng liêng, là một tất yếu của tạo hóa. Nhưng là người dân của một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc rằng quyền thiêng liêng, vốn có ấy không phải tự nhiên mà có được, mà phải đổ máu, hy sinh, phải đấu tranh với quyết tâm “ thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(5). Đứng trước những thử thách khắc nghiệt của lịch sử, một dân tộc không biết đấu tranh cho độc lập, tự do thì cũng không xứng đáng được hưởng nền độc lập, tự do. Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(6). Dân tộc đó còn có quyết tâm sắt đá “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”(7).
     Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập thực sự là một mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, cũng như trong cuộc đấu giải phóng của các dân thuộc địa. Nếu hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người; thì Tuyên ngôn độc lập báo hiệu một thời đại mới, thời đại giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn thế giới; thời đại của các dân tộc bị áp bức, bóc lột giành lại quyền sống, quyền độc lập, tự do.
 
         KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN NGUYÊN TẮC VỀ CHỦ QUYỀN NHÂN DÂN

      Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trong tác phẩm Khế ước xã hội của Jean Jacques Rousseau, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ khẳng định chân lý: “Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân”(8)Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp đã chỉ ra “sự thiếu hiểu biết, hờ hững hoặc coi thường những quyền của con người chính là nguyên nhân duy nhất dẫn đến những tai họa của cộng đồng, và dẫn đến sự thối nát của các chính quyền... Mục đích của tất cả các tổ chức chính trị là bảo vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người”(9). Sự cần thiết của việc xây dựng chính quyền nhân dân, hoạt động vì mục tiêu cao nhất bảo vệ quyền con người, vì hạnh phúc con người đã được khẳng định trong hai bản Tuyên ngôn lịch sử này. Hơn thế nữa “bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ”(10).

     Cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo không chỉ là cuộc cách mạng làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, xóa bỏ xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp và của phát xít Nhật. Cuộc cách mạng ấy đồng thời thực hiện nhiệm vụ lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót gần 1.000 năm. Việt Nam từ một nước thuộc địa, phong kiến đã trở thành một nước độc lập, theo chế độ Dân chủ Cộng hòa.
     Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ chủ thể của cuộc cách mạng chính là nhân dân, thành quả cách mạng đạt được do nhân dân làm ra và nhân dân là người bảo vệ thành quả đó: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà”. Có thể nói, đến đây nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” với ý nghĩa nhân dân là chủ thể nước Việt Nam mới, của chế độ Dân chủ Cộng hòa đã được Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng. Hơn nữa, khái niệm nhân dân mà Hồ Chí Minh sử dụng không bó hẹp trong giai cấp, tầng lớp nào mà là mọi người dân Việt Nam yêu nước, không phân biệt giới tính, địa vị, tôn giáo, giai cấp.
     Chế độ Dân chủ Cộng hòa được Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn là chế độ thực hành nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” một cách triệt để và thực chất. Đó là chế độ lập ra từ thành quả đấu tranh của nhân dân, được xây dựng theo ý nguyện của các tầng lớp nhân dân, hướng tới mục tiêu cao cả “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” cho nhân dân. Tư tưởng này của Người sau đó được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam do Người làm Trưởng ban soạn thảo: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 7 trong Hiến pháp ghi nhận quyền chính trị của công dân: Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình. Nhân dân có quyền quyết định những công việc trọng đại của đất nước cũng như bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra.
     Có thể nói, ra đời sau hai bản Tuyên ngôn lịch sử của nhân loại hơn một trăm năm, trong bối cảnh lịch sử mới, bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam đã kế thừa, chắt lọc phát triển giá trị căn cốt, mang tính bền vững và phổ quát nhất của hai bản Tuyên ngôn trước đó. Với những giá trị đó, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ là lời tuyên bố độc lập, khai sinh cho một Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo đuổi mục tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, mà còn đóng góp quan trong cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người và vì hạnh phúc của con người.
 

 
(1) (7) (8) (9) Nguyễn Văn Út: 9 bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2006, tr. 125, 126, 285, 286.
(2) (3) (4) (5) (6) (10) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t. 4, tr. 1, 1, 1, 534, 1, 3, 3.
 
 

Nguồn: tuyengiao.vn

    

KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC

   GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - MỤC TIÊU, LÝ TƯỞNG

  VÀ LẼ SỐNG CỦA CHÚNG TA

  
     (ĐCSVN) - Trong hoàn cảnh hiện thời, việc đẩy mạnh tuyên truyền và lan tỏa, hưởng ứng, truyền cảm hứng bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở lý luận và khoa học để xây dựng, củng cố niềm tin tất thắng của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
 
  
Ảnh minh hoạ: Phạm Cường

       Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, một số người đã vội hý hửng rằng, sự sụp của đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là “sự cáo chung của chủ nghĩa Mác - Lênin”, là “sự sụp đổ của lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga” vĩ đại. Trong các nội dung về chủ nghĩa xã hội thì vấn đề lý luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam luôn được những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đặc biệt quan tâm. Bằng âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, họ cố tình công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta từ nhiều phía.

     Vì sao họ lại xoáy vào bài xích, xuyên tạc, phủ nhận những vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất là lý luận về đường lối đổi mới, về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì sao họ lại ra sức xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn từ những năm đầu thế kỷ XX. Trong bối cảnh tình hình mới, đẩy mạnh nghiên cứu, truyền cảm hứng và lan tỏa bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Phát triển quan điểm, tư tưởng của đồng chí Tổng Bí thư, chúng tôi phân tích, làm rõ hơn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để khẳng định lý luận về đường lối đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
     Luận giải về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có nhiều cách tiếp cận, lập luận, giải đáp khác nhau; phần lớn là các quan điểm đồng tình, ủng hộ chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Song cũng có không ít quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta về đường lối đổi mới, rõ nhất là luận điệu sai trái cho rằng, ở Việt Nam cần phải lựa chọn con đường khác chứ không phải là tiếp tục đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội!
     Họ lập luận rằng: Thay đổi mục tiêu, con đường, định hướng phát triển đất nước lúc này là rất cần thiết. Có thay đổi thì ở Việt Nam mới thật sự có đổi mới; người Việt Nam sẽ có điều kiện để hội nhập quốc tế, mau chóng thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, trở thành “con rồng, con phượng ở châu Á”. Theo họ, con đường đi “ngắn nhất, phù hợp nhất” đối với Việt Nam thời điểm nay hoàn toàn không phải như Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần phát biểu mà là bắt tay “làm ăn” với các nước tư bản phát triển, nhờ sự giúp đỡ của các tập đoàn kinh tế, khoa học, công nghệ, tài chính lớn trên thế giới để phát triển đất nước. Họ đưa ra nhiều luận cứ khác nhau để chứng minh cho luận điểm, rằng hầu hết các nước trước đây đã từng là chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Bungari,... nhưng đã từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đã bắt tay với Mỹ, gia nhập khối NATO, được các tập đoàn kinh tế, khoa học, công nghệ, tài chính lớn trợ giúp nên họ đã “lột xác”, phát triển thần tốc, đã thay da đổi thịt, mang bộ mặt hoàn toàn mới, đất nước phồn vinh, người dân đã đổi đời, có cuộc sống sung sướng; từ đó khẳng định “đi theo con đường tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử”, là “sự thật khách quan”, sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
     Theo họ, “đổi mới như vậy mới thực là đổi mới”, “cách đi như vậy mới thật sự đúng đắn, hợp thời”.Một mặt, tránh được sự bao vây, phong tỏa, cấm vận của một số nước lớn, tạo được môi trường “hòa bình, ổn định” để mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế để Việt Nam phát triển bền vững.Hơn thế nữa, đó là “tính ưu trội vốn có của một nước có trình độ sản xuất, khoa học, công nghệ thấp so với các nước có trình độ sản xuất, khoa học, công nghệ phát triển cao” là các nước lớn G7, G20. Nhờ “bước phát triển đột phá ấy”, Việt Nam sẽ sớm chuyển mình, “lột xác”, chấm dứt sự lạc hậu, yếu kém, nhanh chóng vươn lên thứ hạng cao, sánh vai với các quốc gia hàng đầu, trở thành nước phát triển. Đó là cái cách giúp Việt Nam nhanh chóng thu hút vốn đầu tư; phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ và chuyên gia của mọi lĩnh vực được tăng cường, không cần phải chờ đợi quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia và tích lũy vốn dài lâu. Với cách đi này, Việt Nam vừa không phải lo đối phó với thù trong giặc ngoài, giữ được Biển Đông; vừa có điều kiện để tăng tốc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đẩy nhanh quá trình phát triển đất nước.
     Không dừng ở đó, họ còn cho rằng, nếu Việt Nam bắt tay “làm ăn”, hợp tác với các nước lớn, gia nhập khối NATO thì đó là thời cơ, điều kiện tốt nhất để giảm chi phí quốc phòng, an ninh, tập trung xây dựng, phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu có, phồn vinh, quân đội hiện đại, không cần chờ đến 2030 mới xây dựng quân đội hiện đại như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định. Sự hùng mạnh của quốc gia - dân tộc nhờ sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước sẽ có thêm điều kiện bảo đảm xây dựng đất nước phồn vinh, thịnh vượng. Cùng hướng với quan điểm sai trái, lệch lạc này là một số ý kiến tự cho mình là “cấp tiến” khi cho rằng, tham gia khối NATO là cái đảm bảo chắc chắn nhất để có độc lập chủ quyền quốc gia - dân tộc Việt Nam. Thậm chí, sự lớn mạnh của đất nước sẽ là thứ vũ khí lợi hại nhất để uy hiếp, răn đe các nước có mưu đồ thôn tính Biển Đông của Việt Nam, làm thui chột âm mưu xâm chiếm biển, đảo của họ…
     Với những lập luận về “cái được”, “cái mất” nêu trên, những người có quan điểm “cấp tiến” đã gửi “tâm thư”, “huyết thư” kiến nghị với Đảng, Nhà nước ta phải đẩy nhanh quá trình đổi mới tư duy và mạnh dạn huỷ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để sớm kết thúc thời kỳ quá độ gián tiếp đầy đau khổ hiện nay mà nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang gây ra. Theo họ, có “quyết tâm” làm như vậy thì nước ta mới thực sự rút ngắn quá trình “đau khổ’, sớm thực hiện được mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
     Những “lời khuyên”, “kiến nghị” nêu trên, thoạt nghe có vẻ hấp dẫn, thực dụng, “tâm huyết”. Song, suy xét kỹ lưỡng, nhìn nhận khách quan, toàn diện, thì nó hoàn toàn đi ngược lại mục tiêu, con đường, lẽ sống mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Khi những bức “tâm thư” với lời khuyên, kiến nghị, khuyến nghị, yêu cầu của những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước không được chấp nhận thì họ quay lưng, trở mặt, lập tức uốn lưỡi nói xấu, xuyên tạc sự thật, cố tình bôi nhọ danh dự, hạ thấp uy tín, vị thế của Đảng, Nhà nước ta. Bằng sự thật đầy thuyết phục là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong hơn 35 năm đổi mới đất nước, họ không thể sống sượng phủ nhận, bài bác vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, không thể bóp méo, bôi đen sự thật trước người dân theo kiểu “lấy vải màn che mắt thánh”, nghĩa là phủ định sạch trơn, chà đạp thô bạo lên lịch sử; thế nhưng họ vẫn trơ tráo “khua môi múa mép”, nói càn, viết bậy, “đậm vại thóc chọc vại gạo” hết sức phi lý.
     Việc họ quay lưng, sử dụng các ngón đòn ác hiểm, lời lẽ cay nghiệt để phê phán, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là chiêu trò “quấy rối” chúng ta đã biết. Làm điều sai trái ấy, họ hy vọng sẽ gặt hái thành công, đạt được hiệu quả nhất định vì nó gây ra sự nghi ngờ về bản chất khoa học, cách mạng, giá trị và ý nghĩa; tính đúng đắn, sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho một bộ phận người dân nghi ngờ về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo cách này, họ cố tình tạo ra “một khoảng trống” trong lòng Nhân dân với việc hình thành dư luận xấu trong lòng xã hội ta. Qua đó, phân hóa các lực lượng “trung thành” với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm thóp ai thuộc lực lượng “cấp tiến” có mong muốn đi theo chủ nghĩa tư bản, kết thân với nước lớn. Từ đó, bằng mọi cách lừa bịp, mua chuộc, tập hợp các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, phản động thành một lực lượng độc lập, tạo dựng ngọn cờ, khi đủ mạnh thì ép Đảng, Nhà nước ta từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để thực hiện mưu đồ lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, có lợi cho chúng.
     Trước tình hình ấy, trong quảng đại quần chúng Nhân dân ta, không phải tất cả mọi người đều hiểu sâu sắc và nhìn thấy thực chất, bản chất vấn đề, không ít người đã bị “lây nhiễm cái xấu”, có lúc nghi ngờ, hoang mang, dao động quan điểm, lập trường, cho rằng, đi theo con đường chủ nghĩa xã hội như Liên Xô và các nước Đông Âu chẳng có ích lợi gì, kết cục là trượt dài theo lối mòn, không thể tránh khỏi vết xe đổ vỡ. Trong khi đó, nhìn về các nước tư bản phát triển, nhất là các nước lớn phương Tây, họ thấy sức mạnh của đồng đôla, đồng bảng Anh, đồng Euro và đời sống vật chất, phượng tiện sinh hoạt đều đạt mức cao, từ đó choáng ngợp, lóa mắt, mơ tuởng hão huyền, thậm chí lâm bệnh “sùng ngoại”, tẩy chay “hàng nội” đáng trách.
     Trong khoảng giới hạn của nhận thức và trình độ hiểu biết hữu hạn, cùng với sự “bơm tin” bài xích, xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận chủ nghĩa xã hội hiện thực; ca ngợi chủ nghĩa tư bản đương đại, đã làm cho bộ phận người “thiển cận” cả tin vào sự mê hoặc của lý luận tư sản, sự “thuyết phục”, bị mua chuộc của đồng tiền. Tình trạng này đã và đang diễn ra nếu không có biện pháp ngăn chặn, khắc phục, không được giáo dục từ sự giải thích có lý, có tình, có cơ sở khoa học để họ “tâm phục, khẩu phục” sẽ là một nguy cơ đáng lo ngại là làm cho những người này ngày càng lún sâu vào “vũng bùn” của nhận thức sai lầm và những hành vi sai trái, xô đẩy họ có hành vi chống Đảng, Nhà nước; đồng thời, gây tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
     Trong hoàn cảnh hiện thời, việc đẩy mạnh tuyên truyền và lan tỏa, hưởng ứng, truyền cảm hứng bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở lý luận và khoa học để xây dựng, củng cố niềm tin tất thắng của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời, tỏ rõ thái độ kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phản động, cơ hội chính trị; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân nắm vững và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu Đại hội XIII của Đảng đã xác định, phấn đấu để nước ta sớm trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là lời kêu gọi từ trái tim, mệnh lệnh của cuộc sống; danh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đối với Đảng, Nhà nước và chế độ lúc này.
     Thông qua những việc làm thiết thực, các cấp, các ngành, từng cán bộ, đảng viên phải làm cho quần chúng Nhân dân, những người thân trong gia đình hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch. Đồng thời, giúp cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người dân nhận thức đúng bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn từ những năm đầu thế kỷ XX, vững vàng niềm tin trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Qua đó, trang bị những kiến thức lý luận - thực tiễn cần thiết để cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân “miễn dịch” trước các đòn tấn công ác hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch cả trong lý luận và trong thực tiễn. Trên cơ sở đó, mọi người tự tin, chủ động và tích cực tham gia cuộc đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, phản động, bảo vệ cái đúng, cái tốt, cũng như việc bình tĩnh, khôn khéo và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, những cám dỗ vật chất đời thường, trước mắt để giữ sạch phẩm chất, thanh danh người cán bộ, đảng viên.
     Ai đó vẫn khư khư cho rằng, ở Việt Nam, con đường phù hợp và hiệu quả nhất để xóa đói, giảm nghèo, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, xin hãy một lần đến viếng thăm Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ Đường 9 và hàng nghìn nghĩa trang liệt sĩ khác trên khắp 3 miền đất nước. Ở đó, họ sẽ nhận rõ hơn sự thật, cái giá phải trả cho một ngày sống trong hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc; sẽ phải tự mình thẩm vấn, suy nghĩ và nhận thức lại chính mình, cắt nghĩa được lẽ phải, cái thiện, cái ác, đúng và sai, ai là bạn, ai là thù. Chẳng nhẽ sự hy sinh tuổi trẻ, xương máu của đồng chí đồng bào ta, của hàng vạn anh hùng, liệt sĩ là uổng công, vô ích? Chẳng nhẽ họ không hiểu lịch sử truyền thống của dân tộc Việt Nam, hay là cố tình không hiểu sự thật về những đau thương, mất mát mà ông cha ta đã từng gánh chịu bởi gặp họa giặc ngoại bang xâm lược, từ đó sẽ tự lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội hay tư bản chủ nghĩa cho phải đạo?
     Bài học về nỗi đau thương mất mát, về nỗi ô nhục vì giặc ngoại bang đô hộ cướp đoạt thân mạng, cuộc sống làm người đã thúc giục ông cha ta, mọi người dân ta kế tiếp nhau đứng lên đánh đuổi quân ngoại xâm, quyết giành tự do, độc lập, dù biết rằng trong cuộc chiến đấu ấy có thể bị hy sinh, đổ máu, tổn thất nặng nề, ra đi không hẹn ngày về. Là người Việt Nam yêu nước, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, hiểu rõ cội nguồn lịch sử, cớ sao lại nhẫn tâm, cúi đầu, cam chịu làm tay sai cho địch, tại sao lại “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về rày mả tổ”, gây tội ác tày trời với chính những người thân là bà con ruột thịt của mình. Là người Việt Nam, sinh ra và lớn lên bằng dòng sữa mẹ, bằng truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, cớ sao lại nhắm mắt, quay lưng lại lịch sử, quyết lựa chọn con đường đẫm máu, quay lại chế độ áp bức, bất công, tệ nạn người thống trị người? Hãy đọc lại lịch sử dân tộc Việt Nam, tĩnh tâm xem vì lẽ gì mà các sĩ phu yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã phải rời bỏ quê hương, ra đi tìm đường cứu nước, phải cầu cạnh người nước ngoài giúp Nhân dân ta đấu tranh giành độc lập? Vì lẽ gì mà người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành phải rời Tổ quốc, phải bôn ba tìm đường cứu nước đến tận phương trời Âu châu xa xôi, tận nơi sào huyệt của quân xâm lược để cắt nghĩa cho được tại sao thực dân Pháp lại đem quân xâm lược một dân tộc nhỏ bé “đất không rộng, người không đông” là Việt Nam và các dân tộc thuộc địa khác, để rồi qua đó học hỏi kinh nghiệm đấu tranh chống quân xâm lược về giúp đỡ đồng bào đánh đuổi giặc ngoại xâm, nội xâm; thực hiện khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, cơm no, áo ấm cho đồng bào.
     Với lương tâm và trách nhiệm của một CON NGƯỜI, phân biệt được điều hay lẽ phải, nhận thức được cái đúng, cái sai, chắc chắn rằng ai cũng phải nhìn đúng sự thật, tôn trọng sự thật và nói đúng sự thật; cảm nhận sâu sắc giá trị tìm kiếm con đường cách mạng vô sản, đi theo Các mạng Tháng Mười Nga của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Còn nếu như hiểu biết và nhìn nhận đúng sự thật, nhưng lại “đeo cặp kính màu”, bị cám dỗ, mua chuộc để cố tình bóp méo sự thật, thêu dệt, xuyên tạc sự thật, đổi trắng, thay đen, đánh tráo khái niệm thì những việc làm đó, tự bản thân người làm sai phải thấy hổ thẹn và day dứt với chính lương tâm của mình, thấy việc làm đó là có tội lỗi với cha mẹ, người thân; những anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì mình, là thiếu lương tâm, trách nhiệm với cuộc sống, là bội bạc với tổ tiên, cha mẹ, những người đã sinh thành, dưỡng dục, cho mình cuộc sống hạnh phúc hôm nay. Cuộc sống chiến đấu, lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta không cần những con người thay lòng đổi dạ, bất nhân, bất nghĩa; không muốn đi chung con đường lạc lối, sai lầm.
Ai cũng biết rằng, việc xóa bỏ chế độ xã hội cũ, lỗi thời, lạc hậu để xây dựng nên chế độ xã hội mới, tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn là xã hội xã hội chủ nghĩa, không thể làm tức thời, mong muốn là có ngay những kết quả, mà cần phải có một thời gian nhất định, một thời kỳ quá độ để từng bước xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu còn rơi rớt lại; đồng thời, xây dựng và nuôi dưỡng những cái mới, cái tốt của chế độ xã hội mới, đúng như đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Đảng ta đã khẳng định trong bài viết. Chủ nghĩa Mác - Lênin dạy rằng, giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản cần có một thời kỳ cải biến cách mạng để chuyển từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ về kinh tế và chính trị, bởi vì xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội vừa thoát thai từ chế độ xã hội cũ, cho nên, các mặt kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa... còn mang những dấu vết của chế độ xã hội cũ mà nó đã lọt lòng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa giai cấp vô sản và giai cấp địa chủ, phong kiến và giai cấp tư sản là tất yếu khách quan, vô cùng quyết liệt. Tính phức tạp và cam go của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được V.I. Lênin khái quát là “thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn”. Ở đó, có những thành phần, những bộ phận, những mảng ghép đan xen giữa hai chế độ cũ và mới: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Theo V.I. Lênin, đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chính là thời kỳ đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa tư bản đang chết dần chết mòn và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh nhưng chưa đủ sức đánh gục các thế lực phản động. V.I. Lênin cũng khẳng định rằng, “những cơn đau đẻ kéo dài” của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, giai cấp vô sản sau khi giành thắng lợi trong cách mạng vô sản phải đồng thời làm nhiều việc để loại bỏ dần những cái cũ, những tàn dư mà chế độ xã hội trước đó đã để lại, đồng thời, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, đặc biệt là nền tảng chính trị, tinh thần cho xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đương nhiên là một thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, có thể rất lâu dài và phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều bước trung gian. Các nhà lý luận tư sản và bồi bút của họ là những người có học thức, có lý luận, họ quá hiểu rõ điều này nhưng vì lợi ích của họ gắn chặt với lợi ích và địa vị của chủ nghĩa tư bản, nên đã cố tình làm ngơ, buộc “phải ăn theo, nói theo”, bênh vực và phụ họa cho chủ nghĩa tư bản; bênh vực và bảo vệ con đường đẫm máu và nước mắt do giai cấp bóc lột gây ra.
     Đối với chúng ta, chủ nhân của đất nước có hòa bình, độc lập, đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tuy cương vị, chức trách, nhiệm vụ của mỗi người có khác nhau, song chúng ta đều thấm nhuần sâu sắc: chỉ có đi theo con đường chủ nghĩa xã hội thì chúng ta mới xóa bỏ được tệ nạn người áp bức, bóc lột người, mới thực hiện được lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi người và mọi người.
     Rõ ràng là, đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn là thực hiện chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, bởi vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự khái quát cao nhất cái đẹp của cuộc sống, hạnh phúc của con người, là sự chung đúc tất cả lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Ai đó đã cố tình xuyên tạc bản chất của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là vì họ đã rơi vào chủ nghĩa cá nhân, là làm trái với chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, là đi ngược lại lợi ích của người dân và dân tộc Việt Nam. Muốn chữa “căn bệnh” này, chỉ có một thứ thuốc đặc hiệu là từ bỏ chủ nghĩa cá nhân, rũ bỏ những thành kiến, những ác cảm bởi những nhận thức sai lầm về chủ nghĩa Mác - Lênin, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
     Nói cách khác, chừng nào còn “theo đuôi” giai cấp tư sản, nói theo, ăn theo, bênh vực và bảo vệ chủ nghĩa tư bản, quay lưng và phản bội dân tộc thì chừng ấy, những người “bồi bút” cho giai cấp tư sản, có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta cũng chỉ là “diễn viên đeo mặt nạ”, làm hề kiếm tiền trên sân khấu, mua vui cho giai cấp tư sản. Nghị quyết Đại hội XIII đã triển khai; sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và Nhân dân ta vẫn tiếp tục, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không thể đổi khác, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
     Trong cuộc đấu tranh sinh tử vì chủ nghĩa xã hội thì cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận của Đảng chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển lý luận về đổi mới đất nước, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đồng thời gắn với cuộc đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, bệnh cá nhân chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, lãng phí... Bởi vì, căn bệnh này đẻ ra tất cả mọi tính hư, tật xấu như lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô... Và chính căn bệnh này không chỉ gây nguy hại, làm thoái hóa, biến chất con người và tổ chức, làm cho Đảng ta suy yếu, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng mà còn dẫn đến tình trạng khinh thường, nhờn lý luận, phai nhạt lý tưởng, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chà đạp lên chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
     Có thể khẳng định rằng, người mắc “căn bệnh chủ nghĩa cá nhân” cũng có nghĩa là đã bước ra khỏi đội ngũ của những người cộng sản, bị tha hóa, biến chất, phản bội lại sự nghiệp của Đảng, của Nhân dân ta. Chính những người này là đối tượng bị lôi kéo, quyến rũ của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong thực hiện mưu đồ chống lại sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta. Đồng thời, với quá trình đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, chống chủ nghĩa cá nhân, Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội cần đổi mới công tác giáo dục pháp luật và đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Bởi vì, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, tự do, hạnh phúc, được học hành tiến bộ, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đạt được mục tiêu đó còn dài lâu. Để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó, xã hội ta cần xác lập cho được ý thức đạo đức cộng sản chủ nghĩa: “mình vì mọi người và mọi người vì mình”. Đúng như điều Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa phải là người cách mạng, "người cách mạng phải có đạo đức cách mạng". Đây là điều mấu chốt, mang ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới, sự thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
     Con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta lựa chọn từ đầu thế kỷ XX đã được triển khai và thực hiện trên đất nước Việt Nam yêu dấu. Chúng ta tự hào vì có Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, Nhân dân ta anh hùng, đã kế thừa và tô thắm thêm lịch sử truyền thống vẻ vang, bách chiến, bách thắng của ông cha ta để tự tin, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
     Là một nước đất không rộng, người không đông, đời sống vật chất chưa thật giàu sang, sản xuất xã hội chưa thật phát triển, song dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta đã làm nên những chiến công hiển hách, đã ghi những mốc son chói lọi vào trang sử vàng của dân tộc, đã khắc ghi dấu ấn vào thời đại mới là một dân tộc đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ là Pháp và Mỹ; đã đưa công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thành công, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội của Nhân dân thế giới, vì sự nghiệp đấu tranh gìn giữ hòa bình và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
     Thời gian tiếp tục trôi đi, cuộc sống sẽ có nhiều đổi thay, Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một, đều nhất quán, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn, nhất định chúng ta sẽ hoàn thành các chỉ tiêu, mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định. Suy ngẫm về bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cảm nhận từ thực tế những thành tựu đã đạt được trong thế kỷ XX và hơn 20 năm đầu thế kỷ XXI, chúng ta tin tưởng rằng sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nhất định sẽ thành công, uy tín, vị thế của nước ta sẽ tiếp tục được nâng cao trên trường quốc tế./.
Nguồn: dangcongsan.vn

Tin liên quan