TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - TRỌNG TÂM CHỐNG PHÁ
CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
(TG) - Tư tưởng chính trị là nhân tố hàng đầu tạo niềm tin, sự đồng thuận xã hội. Vì thế, các thế lực chống phá, thù địch luôn xác định đây là mắt xích, mũi đột phá quan trọng cần tập trung tấn công.
(Ảnh minh hoạ)
LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ
Tư tưởng chính trị bàn ở đây là tư tưởng về vấn đề chính trị mà Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, xây dựng xã hội của dân, do dân và vì dân. Lập trường này được C.Mác cùng F.Ăngghen xây dựng trên cơ sở sự vận hành và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội trong hiện thực lịch sử nhân loại. Đó là học thuyết vĩ đại của xã hội loài người-học thuyết khoa học về chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đó cũng chính là tư tưởng chính trị then chốt; là yếu tố quan trọng hàng đầu cần được xác lập một cách vững vàng trong mỗi chủ thể của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng chính trị là nhân tố hàng đầu tạo niềm tin, sự đồng thuận xã hội.Vì thế, các thế lực chống phá, thù địch luôn xác định đây là mắt xích, mũi đột phá quan trọng cần tập trung tấn công. Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh (1999), Níchxơn đã viết: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”, “vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.
Theo đó, những chiêu bài về “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hay “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”… mà các thế lực thù địch vẫn không ngừng “lớn tiếng” lâu nay cũng chỉ nhằm hướng tới một mục tiêu: phủ nhận những vấn đề căn cốt - nền tảng tư tưởng chính trị của chúng ta.
Một là, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các thế lực thù địch, phản động, chống phá vẫn luôn tự cho họ “cái quyền” đòi Đảng ta, nhân dân ta từ bỏ mục tiêu, con đường đã chọn với “lỹ lẽ” rằng đó là “con đường sai lầm, dẫn dân tộc đến đường cùng, ngõ cụt”. Họ ra sức lợi dụng sự kiện CNXH theo mô hình Xô viết ở Liên xô và các nước Đông Âu trước đây sụp đổ để “kết luận” rằng CNXH đã cáo chung, Đảng Cộng sản đã hết vai trò lịch sử; rằng Việt Nam kiên định đi lên CNXH là sai lầm, là đi vào “vết xe đổ” Liên Xô và Đông Âu. Họ cố tình xuyên tạc: “Chủ nghĩa xã hội mà C.Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”; không bao giờ thực hiện được”. Hơn thế, họ “dạy” Đảng ta cần phải đi theo con đường - mô hình “xã hội dân chủ”, “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập”... Đồng thời không ngừng rêu rao, kích động, bôi đen chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, cho rằng, kinh tế thị trường với CNXH như lửa với nước, không thể đồng hành, từ đó phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước, đòi tư nhân hóa đất đai…
Những luận điệu nêu trên vẫn thường được “nhai đi nhai lại” khi trắng trợn, lúc tinh vi; lúc thì “mượn mồm” của một số người biến chất, bất mãn, khi thì thô lỗ nhân danh, khoác áo “những nhà chính trị”, “tổ chức nọ”, “hội kia”. Tuy giọng điệu, cung bậc khác nhau, song đều chung một kiểu “mưa dầm thấm lâu”, nhằm làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin chính trị.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây là do những sai lầm về tư tưởng chính trị trong đường lối cải tổ, cải cách, đổi mới cũng như những sai lầm trong thực tế xây dựng CNXH hiện thực (trong đó có tư tưởng giáo điều; phương thức vận hành thiếu phù hợp; thiếu dân chủ đích thực trong nhiều lĩnh vực; tình trạng tha hóa của một bộ phận cán bộ, đảng viên…). Đây là những vấn đề trọng yếu mà các thế lực thù địch triệt để tận dụng, khoét sâu và đẩy mạnh “Diễn biến hòa bình”.
|
Để tạo sức “đề kháng” trước những “cơn gió độc”, bên cạnh không ngừng củng cố bản lĩnh và sự kiên định của mỗi công dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên vào mục tiêu, con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, chúng ta cần tiếp tục thấu triệt: (1) Sự thay thế của hình thái kinh tế XHCN vào hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa là sự tiếp nối tất yếu trong dòng chảy phát triển. Vấn đề này đã được khẳng định bằng chính quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. (2) Thực tiễn tiến trình cách mạng Việt Nam dưới ngọn cờ của Đảng đã và đang minh chứng “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”(1). “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”(2) là sự kiên định khoa học, khách quan, đúng đắn, phù hợp, đang từng bước thỏa mãn khát vọng chính đáng của nhân dân: độc lập, hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc. (3) Những nhà tài phiệt của chủ nghĩa tư bản luôn muốn duy trì sự bất bình đẳng của xã hội để thâu tóm lợi ích. Vì thế, bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân lao động không phải là mục tiêu mà họ hướng tới, không phải là bản chất chế độ mà họ muốn duy trì.
Hai là, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Vẫn “quanh đi quẩn lại” với những “diễn giải” như, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, chỉ phù hợp với trình độ, lực lượng sản xuất phương Tây thế kỷ XIX; ở thế kỷ XXI, chủ nghĩa này đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua... từ đó, những thế lực chống phá, phản động luôn “to mồm” rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không phù hợp với Việt Nam; việc du nhập chủ nghĩa này vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa vì đây là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc... Cùng với đó, họ không ngừng xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như cuộc đời và sự nghiệp của Người; bóp méo sự thật công cuộc đổi mới ở Việt Nam... Những “giọng điệu” đó đều không nằm ngoài mục đích: phủ định sự vận dụng sáng tạo tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam; phủ nhận nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng xã hội của dân, do dân và vì dân.
Để phản bác lại những “lập luận” nêu trên, chúng ta cần không ngừng nắm rõ, hiểu sâu, củng cố lại nhận thức: (1) Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống các quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác và Ph.Ăng-ghen xây dựng, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, bổ sung trong điều kiện cụ thể một nước thuộc địa, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu; được hình thành và phát triển trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại; là thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người. (2) Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. (3) Xây dựng CNXH ở Việt Nam là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học, kinh tế chính trị Mác - Lênin, CNXH khoa học vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. (4) Trên cơ sở quan điểm “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin”(3), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng trong quá trình trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, cùng toàn dân xây dựng một xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ba là, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hết năm này qua năm khác, các phần tử, tổ chức phản động, thù địch vẫn không ngừng ra rả những luận điệu “rườm tai” như “Đảng Cộng sản chưa bao giờ chứng tỏ có khả năng quản trị đất nước”; “chế độ một đảng lãnh đạo, cầm quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền, khiến xã hội không có tự do, dân chủ”; “từ bỏ độc quyền lãnh đạo là then chốt của chế độ dân chủ”... Đồng thời, họ dẫn những quan điểm “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; đồng nhất nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân...
Một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị ở trong nước cũng thường “vào hùa”, “ăn theo”, khi thì nhân danh “quyền công dân”, khi thì gắn mác “tâm nguyện vì nước vì dân” để đưa ra những “yêu sách” kiểu như: Đảng phải “thay đổi Cương lĩnh xây dựng đất nước”, phải “chuyển đổi thể chế chính trị”...
Tất cả những “kiểu cách” nêu trên, dù được ngụy trang bằng những mỹ từ nào đi nữa, thì bản chất và mục đích vẫn là nhằm làm phân tâm, tạo hoài nghi trong xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, để từ đó phủ nhận nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, làm “nhiễu loạn” mọi hệ giá trị, tiến tới phủ nhận chế độ, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Do đó, việc nắm chắc những nội dung căn cốt về tư tưởng chính trị là “vũ khí” quan trọng nhất để mỗi chúng ta chiến thắng chính mình - vượt qua những mơ hồ, hoài nghi, dao động; đồng thời đấu tranh phản bác có hiệu quả với những giọng điệu “ngụy dân chủ”, “ngụy lý luận”.
Về phương diện lý luận, vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền trong thời ký quá độ đi lên CNXH là một trong những nội dung quan trọng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu lịch sử đương đại, Mác và Ăng-ghen chỉ ra rằng, trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực nhà nước sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Kế thừa những di sản tư tưởng chính trị cơ bản đó, V.I.Lênin đã phát triển và có những luận điểm sâu sắc, trong đó khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng CNXH thành công. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong quá trình đi tìm “lời giải cho bài toán” cách mạng Việt Nam đã nhận thấy: cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...
Về phương diện thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức và hoạt động chặt chẽ theo tư tưởng, nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những kết quả đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hơn 35 năm qua là câu trả lời chính xác, khoa học nhất về vai trò lãnh của Đảng trên cơ sở kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Buông lỏng hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng là phạm sai lầm từ nguyên tắc, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, nguy cơ của mọi nguy cơ dẫn đến thủ tiêu sức mạnh của nhà nước và hệ thống chính trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa cơ hội trỗi dậy.
Vấn đề quan trọng của mọi giai đoạn cách mạng, đặc biệt trong tình hình hiện nay là, việc không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng phải bắt đầu từ không ngừng đổi mới, chỉnh đốn nhận thức, tư duy, hành động của mỗi đảng viên. Muốn bảo vệ Đảng, để Đảng luôn có đủ uy tín chính trị và khả năng hoàn thành nhiệm vụ do lịch sử giao phó, thì trước hết đảng viên phải có đủ bản lĩnh và uy tín chính trị, lý luận gắn với thực tiễn, thống nhất giữa lời nói và hành động...
|
ĐẢNG LÃNH ĐẠO LÀ SỰ LỰA CHỌN KHÁCH QUAN CỦA LỊCH SỬ
Cần khẳng định lại rằng, những “lý lẽ” mà các đối tượng, thế lực chống phá luôn rêu rao, đòi hỏi đối với Đảng và chế độ ta là những điều hoàn toàn không có gì mới, nhất là vấn đề “đa nguyên đa đảng”.
(Ảnh minh hoạ)
Như chúng ta đã biết, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam khai sinh, ở nước ta đã từng có mô hình “đa nguyên đa đảng”. Ngay cả khi Đảng ta ra đời thì “đa đảng” vẫn tồn tại. Nhưng từ chính những đòi hỏi khách quan của lịch sử mà cách mạng đã lựa chọn từ “đa đảng” đến một đảng.Đó xu hướng chính trị gắn liền với hoàn cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể Việt Nam. Để khắc phục tình trạng “độc quyền mất dân chủ”, trong suốt tiến trình cách mạng, mọi đường lối, phương thức lãnh đạo của Đảng đều được bàn thảo, xây dựng trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Vì thế, chúng ta khẳng định, ở Việt Nam không có sự cần thiết khách quan phải thực hiện cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Hơn lúc nào hết, trong tình hình hiện nay, nếu “thỏa hiệp” để thực hiện đa đảng đối lập cũng đồng nghĩa với việc đánh mất sự ổn định chính trị, rối loạn xã hội; tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của các tư tưởng chính trị xa lạ - đi ngược lại lợi ích của quảng đại quần chúng và mục tiêu xây dựng xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh: “tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”(4).
Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn mang tính khách quan của lịch sử dân tộc.
|
Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(5).
Để đấu tranh có hiệu quả với những luận điệu thù địch nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng một cách đúng đắn, khách quan và khoa học, trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên phải nắm vững và thường xuyên củng cố nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tăng cường tuyên truyền “phổ cập” tới mọi tầng lớp nhân dân về mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Qua đó tạo lập một mặt bằng chung trong toàn xã hội về ý thức tư tưởng chính trị; nâng cao khả năng “tự miễn dịch” trước những âm mưu xâm nhập, lây lan của những tư tưởng đi ngược lợi ích nhân dân, trái với lý tưởng và mục tiêu XHCN.
Nghiêm túc quán triệt và thực hiện việc “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính giáo dục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(6). Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập Nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp chiến lược; tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.
Đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” nói chung, chống các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng chỉ phát huy hiệu quả thực chất khi việc chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ Đảng thực sự có chất lượng. Theo đó, sự gương mẫu “nói đúng làm đúng” từ mỗi cán bộ đảng viên là cách tốt nhất để lan tỏa những quan điểm, chủ trương của Đảng tới mọi “ngõ ngách cuộc sống”, để mọi tầng lớp nhân dân luôn “tâm phục khẩu phục”, một lòng theo Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ./.
_____________________
(1) (2) (3) (5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.104, 109, 109, 109, 181.
(4) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 16/5/2021.
Nguồn:tuyengiao.vn
LIÊM CHÍNH - PHẨM CHẤT QUAN TRỌNG HÀNG ĐẦU
CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO GƯƠNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TCCS - Đảng ta thường xuyên nhấn mạnh, một trong những yêu cầu quan trọng trong công tác cán bộ là tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,… gắn với tiếp tục đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Để xây dựng đạo đức trong sáng, tận tâm phục vụ nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, thì việc vận dụng sáng tạo tư tưởng về “liêm chính” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ “LIÊM”
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; vì theo Người, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc,... Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(1). Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(2). Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi người cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng; bởi lẽ, “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(3). Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức cách mạng để cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện và chính Người là tấm gương sáng, suốt đời gương mẫu thực hiện. Ngay từ thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927), Người đã nêu ra những yêu cầu về tư cách một người cách mạng phải có, như “vị công vô tư; không hiếu danh, không kiêu ngạo; nói thì phải làm; giữ chủ nghĩa cho vững,...”. Khi Đảng trở thành đảng cầm quyền, Người nhấn mạnh tới việc phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, xem tham ô, lãng phí, quan liêu là “thứ giặc nội xâm”. Để Đảng ta thật sự là một đảng lãnh đạo và là đầy tớ thật trung thành và tận tụy của nhân dân, thì trước hết cán bộ, đảng viên phải thực hành đoàn kết và thanh khiết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với đại biểu dự Đại hội
Đảng toàn quốc lần II, tháng 2-1951 - Nguồn: noichinh.vn
Đối với cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng phẩm chất “Liêm chính”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Liêm là trong sạch, không tham lam; luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước và của nhân dân; không tham địa vị, tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà người cách mạng luôn quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa; chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Để mọi người hiểu rõ hơn về Liêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đi sâu phân tích khái niệm tương phản - “bất Liêm”: “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”(4). Thực tiễn đã chứng minh là sự bất liêm có vô vàn biểu hiện, như tham tiền dẫn đến việc đục khoét của dân, trộm cắp của công, buôn gian bán lận, đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi, cờ bạc, trộm cắp,...; tham danh vọng, địa vị dẫn đến việc dìm người giỏi, mua bán danh vị, nịnh trên, nẹt dưới; tham nhàn dẫn đến việc ngại khó, sợ khổ, đùn đẩy công việc cho người khác, nhưng khi có công thì tranh, khi có tội thì đổ vấy; tham sống dẫn đến sự hèn nhát, gặp giặc không dám đánh, thấy việc nghĩa không dám làm. Người cho rằng: “Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”(5). Sau khi luận giải về Liêm và giá trị của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về đối tượng thực hành chữ Liêm. Người viết: “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là LIÊM, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp,... Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hoà, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM”(6); tức là mọi người đều phải trong sạch, không tham lam. Sự thực hành chữ Liêm sẽ giúp tất cả mọi người tiến tới sự hoàn thiện về nhân cách và tạo ra sự chấn hưng đạo đức trên quy mô dân tộc.
Để thực hiện chữ Liêm, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và kỷ cương pháp luật, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên; bởi vì, cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ; dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp “đục khoét”, có dịp ăn của “đút”, có dịp “dĩ công vi tư”. Người nhấn mạnh, cán bộ phải ra sức thực hành chữ Liêm bằng những việc cụ thể, như tuyệt đối không đem của công dùng vào việc tư, không động đến cái kim, sợi chỉ của dân,... mua bán phải công bình, mượn cái gì phải trả tử tế, hỏng cái gì phải bồi thường.
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ “CHÍNH”
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh đức Liêm thì người cán bộ, đảng viên rất cần có đức Chính, vì theo Người: “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn”(7); “Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”(8). Người có đức Chính là người chính trực, đúng mực, công tâm, luôn hành động theo lẽ phải, kiên quyết bảo vệ lẽ phải và chính nghĩa có ý nghĩa quan trọng, vị trí rất lớn trong “tứ đức”. Người khẳng định: “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”(9). Tức là, dù Chính là hệ quả của Cần, Kiệm, Liêm, nhưng vẫn có tính độc lập tương đối, vì nhiều khi có đủ Cần, Kiệm, Liêm, mà vẫn không thể Chính. Đức Chính đòi hỏi con người phải có sự chính trực, dũng cảm đấu tranh với cái xấu để bảo vệ lẽ phải; do đó, Chính là đức khó thực hiện nhất trong “tứ đức”, là sự biểu hiện đầy đủ nhất của nhân cách con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vai trò của Chính thông qua việc coi Chính là cơ sở để phân định việc và người. Người cho rằng: “Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm 2 thứ: việc CHÍNH và việc TÀ”(10); vì con người thì phụ thuộc vào việc họ làm mà chia ra thành người thiện và người ác. Như vậy, đức Chính thấm sâu, hiển hiện, chi phối mọi công việc, mọi con người trong xã hội; ý nghĩa của Chính vô cùng sâu rộng, nhưng vươn tới sự Chính thì rất khó khăn vì con người vốn “nhân vô thập toàn”. Người còn chỉ ra những biểu hiện cụ thể của đức Chính. Khi mỗi người luôn có 3 mối quan hệ là với mình, với người, với việc, thì người có đức Chính phải hành xử theo nguyên tắc: Đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự phê bình và lắng nghe phê bình để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; đối với người thì phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn có thái độ chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết; đối với việc thì phải để việc công, lợi chung lên trước việc tư, lợi tư; đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh; mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân, bởi trong tiền đồ chung đều có tiền đồ riêng của mỗi người.
XÂY DỰNG ĐỨC “LIÊM CHÍNH” ĐỐI VỚI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ để lại tư tưởng lớn, mà Người là tấm gương sáng ngời của cả dân tộc về thực hành đạo đức cách mạng một cách cẩn trọng, chắc chắn. Người ra sức vun đắp, xây dựng đạo đức cho toàn thể nhân dân. Người yêu cầu tất cả mọi người đều phải rèn luyện đức “Liêm chính” như những phẩm chất tốt đẹp khác; đối với cán bộ, đảng viên, phải đi đầu để làm gương cho nhân dân học tập. Người nói rõ: “Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”(11); điều đó, trở thành một biểu tượng sáng ngời về nhân cách chính trị, về phẩm chất đạo đức cách mạng, trong sạch; với lối sống giản dị, nhân hậu trong mỗi con người chúng ta.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu
tham quan triển lãm: “Những tấm gương bình dị mà cao quý” trưng bày bên sảnh
Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”_Ảnh : TTXVN
Quá trình 35 năm đổi mới đất nước, dưới sự tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có những hành động, việc làm “bất chính”, “bất liêm”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đánh giá: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá””(12). Chính vì lẽ đó, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên: “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”(13); xây dựng đội ngũ “cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(14). Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, để xây dựng phẩm chất đạo đức “Liêm chính” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, cần tập trung thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục ý thức thực hành đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; làm tốt công tác tuyên truyền, không ngừng nâng cao dân trí, bởi vì, nếu nhân dân hiểu biết, không chịu hối lộ, thì “quan” dù không muốn Liêm, cũng phải Liêm và pháp luật phải nghiêm minh, trừng trị những kẻ “bất liêm”. Yêu cầu đặt ra hiện nay là cần tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, triệt để loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng. Đặc biệt, cần có cơ chế, pháp luật để loại trừ “tham nhũng vặt”, vì “tham nhũng vặt” dù không lớn, nhưng hằng ngày tác động trực tiếp đến nhân dân, nên phải ngăn chặn những hành vi sai trái; đồng thời, tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo hướng cụ thể, thiết thực, gắn liền với các tiêu chí thi đua, phân loại cán bộ, đảng viên. Cần đưa ra những chuyên đề cụ thể về “Liêm chính” với những nội dung thiết thực, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể. Thông qua đó, xây dựng tác phong, lề lối làm việc liêm chính, tận tụy phụng sự nhân dân của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tại các cơ quan, đơn vị phù hợp với chức trách, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của từng cá nhân.
Thứ hai, cần phải tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền. Muốn kiểm soát quyền lực nhà nước, thì phải thực hành dân chủ rộng rãi; vì có thực hành dân chủ rộng rãi mới không còn sự lộng quyền, lạm quyền, gây phiền hà đối với nhân dân; từ đó, khắc phục bệnh tham ô, lãng phí,... Tăng cường, siết chặt kỷ luật đảng, kỷ cương hành chính, thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”; nhằm nâng cao nhận thức, ý thức và hành động chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mỗi cán bộ, đảng viên. Pháp luật, kỷ cương càng nghiêm minh, thì cán bộ, đảng viên càng nâng cao ý thức chấp hành, nêu gương, làm gương; xây dựng và thực hành văn hóa từ chức theo nguyên tắc “làm được việc thì ở, không làm được việc thì lui”.
Thứ ba, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức tự giác, tự tu dưỡng, rèn luyện, tận tâm, tận lực cống hiến trí tuệ, sức lực cho Đảng, phụng sự đất nước và phục vụ nhân dân, nhất là phải đề cao trách nhiệm và sự gương mẫu của người đứng đầu. Cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân; bởi niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào Đảng luôn gắn liền với niềm tin vào người đứng đầu; nên người đứng đầu phải nêu gương về đạo đức, giữ gìn phẩm chất liêm khiết, công minh, chính trực. Đảng lãnh đạo bằng “hành động gương mẫu của đảng viên”, dân có tin Đảng hay không là phụ thuộc vào sự trong sạch, vững mạnh của Đảng và sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên. Nếu đảng viên không gương mẫu thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, rèn luyện đạo đức, lối sống, thì các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khó thực hiện được, thậm chí bị thực hiện sai; khi đó, nhân dân sẽ thiếu tin tưởng vào chủ trương, đường lối, chính sách, công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động của Đảng và Nhà nước. Để phát huy tính gương mẫu, đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải gương mẫu toàn diện; về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống; trong lời nói và việc làm với những hành động cụ thể, thiết thực trên mọi lĩnh vực, mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi, trong tổ chức, gia đình và ngoài xã hội.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức tự giác, tự tu dưỡng, rèn luyện,
tận tâm, tận lực cống hiến trí tuệ, sức lực cho Đảng, phụng sự đất nước và phục vụ nhân dân
(Trong ảnh: Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng giúp đồng bào xã Bản Lầu,
huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai thu hoạch dứa) - Ảnh: TTXVN
Thứ tư, cần nâng cao vai trò giám sát của nhân dân, người dân cần biết rõ quyền hạn của mình để kiểm soát cán bộ, giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm. Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cấp ủy, chính quyền các cấp cần thực hiện có nền nếp và nghiêm túc việc lấy ý kiến phê bình, góp ý của quần chúng nhân dân; phải tiếp thu, sửa chữa những khuyết điểm được nhân dân chỉ ra. Đối với những ý kiến chưa đúng, thì phải giải thích cho nhân dân hiểu; cần xây dựng cơ chế khuyến khích, động viên nhân dân thực hiện vai trò giám sát một cách tự nguyện, tự giác. Để phát huy vai trò giám sát của nhân dân thì điều cơ bản, cốt lõi là nhân dân phải nhận thức đúng vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nhân dân nắm rõ các quan điểm của Đảng, hệ thống văn bản pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của nhân dân trong hoạt động giám sát.
Thứ năm, thực hiện nghiêm túc công tác tuyển chọn, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, cán bộ là gốc của công việc, khi dùng người thì phải dùng người có tài năng, làm được việc; chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ, chức kia. Trong tuyển dụng cán bộ, phải tuyển người có khả năng làm việc hiệu quả; phải tránh xảy ra tình trạng thừa người trong biên chế, nhưng lại thiếu người làm được việc; phải khắc phục những tiêu cực trong tuyển dụng cán bộ và tình trạng “ăn non, ăn xổi” trong sử dụng cán bộ của một số địa phương, đơn vị ở nước ta hiện nay.
Tuyển dụng cán bộ cần tiêu chuẩn hóa, dân chủ hóa, trách nhiệm hóa, cấp độ hóa, kiểm nghiệm hóa; trong và sau khi tuyển chọn cán bộ theo cấp độ, cần kiểm nghiệm lại người được tuyển chọn một cách linh hoạt, khéo léo. Để sử dụng cán bộ có hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ làm công tác tổ chức - cán bộ cần tinh thông kiến thức, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, và quan trọng hơn cả là cần có cái tâm với công việc. Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, cần có một đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức - cán bộ chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản về khoa học tổ chức, nghệ thuật dùng người. Trong sử dụng cán bộ, cần thường xuyên giám sát, kiểm tra cán bộ, đảng viên về tư tưởng, công việc, quan hệ xã hội và tác phong sinh hoạt; kịp thời phát hiện, ngăn chặn khi cán bộ có dấu hiệu vi phạm, sai lầm.
Hơn 90 năm qua, tư tưởng về xây dựng phẩm chất thực hành “Liêm chính” của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn soi rọi cho Đảng ta, cho cán bộ, đảng viên phẩm chất tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Phần lớn cán bộ, đảng viên của Đảng luôn gương mẫu, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xứng đáng với vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Hiện nay, với yêu cầu và nhiệm vụ mới, Đảng ta đặc biệt chú trọng đến việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, để không ngừng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng liêm chính, thực sự xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân./.
------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, t. 5, tr. 309 - 313.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 292
(4), (5), (6), (7), (8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 126, 127, 126, 129, 131, 129
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 129
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 98
(12), (13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 92, 41, 42
Nguồn: tapchicongsan.org.vn