Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ

TIN TỔNG HỢP THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN THÁNG 02/2022

03-02-2022 08:44

 

     1. Ngày 21 và 22/12/2021, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đã thăm cấp Nhà nước tới Vương quốc Campuchia. Chuyến thăm mang nhiều ý nghĩa quan trọng đối với cả hai nước. Đây là chuyến thăm Vương Quốc Campuchia lần đầu tiên của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trên cương vị mới, thể hiện nhất quán đường lối đối ngoại Đại hội lần thứ XIII của Đảng ta luôn coi trọng và dành ưu tiên cao cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng, trong đó có quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Campuchia cũng như tình cảm tốt đẹp của Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam dành cho Campuchia. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cũng là nguyên thủ quốc gia đầu tiên thăm cấp Nhà nước tới Vương quốc Campuchia kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát. Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni cùng các vị Lãnh đạo Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ và nhân dân Campuchia đã dành cho Chủ tịch nước và Đoàn ta sự đón tiếp trọng thị với những nghi lễ cao nhất, cùng với tình cảm nồng hậu và thân tình, thể hiện sự coi trọng và ưu tiên cao của Bạn đối với quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Campuchia và Việt Nam.Chuyến thăm chỉ diễn ra trong hơn một ngày với 16 hoạt động của Chủ tịch nước và các hoạt động của lãnh đạo một số bộ, ngành tham gia Đoàn. Thông qua các cuộc tiếp xúc cấp cao và trao đổi trực tiếp giữa các bộ, ngành, hai bên đã đạt được nhiều kết quả toàn diện và quan trọng: Một là, chuyến thăm đã góp phần thắt chặt hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị, tin cậy giữa hai nước cũng như tình cảm gắn bó giữa lãnh đạo cấp cao hai bên, củng cố vững chắc nền tảng quan hệ và tạo động lực thúc đẩy hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực. Hai là, lãnh đạo hai bên đã nhất trí cao về các chủ trương, biện pháp lớn nhằm tiếp tục đưa hợp tác song phương đi vào chiều sâu, hiệu quả và thực chất; nhất là trong các lĩnh vực then chốt như quốc phòng, an ninh, hợp tác biên giới, thương mại, đầu tư, kết nối giao thông, giáo dục, văn hóa, y tế, giao lưu nhân dân, hợp tác giữa các địa phương...Trong dịp này, hai bên cũng ký 7 văn kiện hợp tác trong nhiều lĩnh vực như an ninh, quốc phòng, tư pháp, giáo dục, hợp tác biên giới và Biên bản của Kỳ họp lần thứ 19 Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật Việt Nam-Campuchia. Ba là, chuyến thăm là sự kiện khởi động cho “Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Campuchia - Việt Nam” để kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm 2022. Hai bên nhất trí thông qua chuỗi sự kiện trong khuôn khổ “Năm Hữu nghị" sẽ tăng cường phối hợp tuyên truyền, giáo dục để các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hai nước nhận thức rõ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng và trách nhiệm trong việc gìn giữ và vun đắp cho quan hệ láng giềng tốt đẹp giữa hai dân tộc, vì sự thịnh vượng của hai quốc gia, hoà bình, hợp tác và phát triển trong khu vực. Bốn là, về hợp tác trong khuôn khổ đa phương, hai bên nhất trí tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn quốc tế, khu vực và tiểu vùng, nhất là hợp tác trong ASEAN.Việt Nam ủng hộ tích cực và phối hợp chặt chẽ với Campuchia trong năm Chủ tịch ASEAN 2022 của Campuchia.Năm là, trên tinh thần triển khai Kết luận 12 của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, Chủ tịch nước đã có cuộc gặp, nói chuyện thân mật với đại diện cộng đồng người người Khmer gốc Việt và doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư tại Campuchia - điều này là nguồn khích lệ, động viên rất lớn đối với bà con trong bối cảnh đang gặp nhiều khó khăn do tác động của dịch Covid-19. Đồng thời trong tất cả tiếp xúc, trao đổi với lãnh đạo Campuchia, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đều đề nghị tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện cho cộng đồng nâng cao địa vị pháp lý và ổn định cuộc sống, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh thuận lợi tại Campuchia.

     2. Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi trọng trách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Trong hai năm đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã tham dự 840 cuộc họp ở cấp Đại sứ trở lên, tham gia đàm phán và thông qua 254 văn kiện, riêng trong thời gian Việt Nam làm Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 26 văn kiện được thông qua, đề xuất và được thông qua 2 nghị quyết và 3 tuyên bố Chủ tịch Hội đồng Bảo an (lần đầu Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc có Tuyên bố Chủ tịch).Bên cạnh đó, các sự kiện và văn kiện do Việt Nam chủ trì đều nhận được sự hưởng ứng, tham gia tích cực của các nước. Việt Nam luôn đề cao thúc đẩy tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và chủ nghĩa đa phương trong mọi hoạt động tại Hội đồng Bảo an; nỗ lực thúc đẩy cách tiếp cận đặt con người là trung tâm trong tìm kiếm các giải pháp bền vững và thỏa đáng nhằm giải quyết những tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, giải quyết các mối quan tâm toàn cầu, cũng như thúc đẩy chính sách nhân đạo đối với các nhóm dễ bị tổn thương. Việt Nam đã thúc đẩy và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ song phương, nhất là các nước lớn, các nước đối tác quan trọng. Các chuyến thăm của Lãnh đạo cấp cao tới các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an(Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Trung Quốc) đều đạt được những thành công tốt đẹp, củng cố và làm sâu sắc quan hệ giữa Việt Nam với các nước, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư. Thông qua việc tiếp xúc, trao đổi, điện đàm ở các cấp về các vấn đề quan tâm chung, Việt Nam đã thể hiện được lập trường nguyên tắc độc lập, ứng xử có trách nhiệm. Dư luận quốc tế và trong nước đánh giá cao cách tiếp cận toàn diện, nhân văn về con người, khẳng định tôn trọng lập trường của Việt Nam trong mọi vấn đề. Quá trình đảm nhiệm cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốcđã để lại nhiều dấu ấn về bản sắc và nghệ thuật ngoại giao đa phương Việt Nam; khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa đạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia dân tộc.
     3. Từ ngày 04 - 11/01/2022, Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất, Quốc hội khóa XV được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Tại kỳ họp, các đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội đã phát huy dân chủ, tập trung nghiên cứu, thảo luận sôi nổi, hiến kế và đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc. Các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và cơ quan có liên quan đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tiếp thu, giải trình nghiêm túc, cầu thị các ý kiến của đại biểu Quốc hội để trình Quốc hội các dự án luật, dự thảo nghị quyết đảm bảo chất lượng cao nhất. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã xem xét, thông qua các luật, 04 nghị quyết với sự thống nhất cao, cụ thể:
     Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội: bám sát chủ trương, định hướng của Đảng, Nghị quyết đã đưa ra các chính sách hỗ trợ với quy mô, nguồn lực đủ lớn, có mục tiêu trọng tâm, trọng điểm, xác định đúng đối tượng cần hỗ trợ. Thời gian thực hiện chủ yếu trong 02 năm (2022 và 2023) với lộ trình thích hợp để nâng cao năng lực phòng chống dịch Covid-19, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Quốc hội đã quyết định các mục tiêu, chỉ tiêu, các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, phương án huy động nguồn lực, việc áp dụng một số cơ chế đặc thù và giao các nhiệm vụ cho Chính phủ.
     Nghị quyết 44/2022/QH15 về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước ta trong trung và dài hạn, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, có tác dụng lan tỏa, liên kết vùng, kết nối các tỉnh, thành phố, vùng kinh tế trọng điểm, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của Nhân dân, giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
     Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự, nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách và quy trình, thủ tục để thúc đẩy đầu tư, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; thể chế hóa các văn kiện của Đảng và thực hiện các nghị quyết của Quốc hội.
     Nghị quyết số 45/2022/QH15 ngày 11/1/2022 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ nhằm kịp thời thể chế hóa các Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ; phát huy tiềm năng, lợi thế để phát triển Cần Thơ nhanh và bền vững, phấn đấu là thành phố trung tâm vùng, sinh thái, văn minh, hiện đại, là đô thị hạt nhân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nghị quyết gồm 10 Điều, quy định thí điểm 08 chính sách đặc thù đối với thành phố Cần Thơ.
     Nghị quyết Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV, khẳng định các kết quả đạt được của Kỳ họp, đồng thời yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện tốt, hiệu quả các chính sách, nhiệm vụ, giải pháp để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch Covid-19 đã được quyết định tại các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; khẩn trương ban hành, chủ động quyết liệt chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch Covid-19 (năm 2022 - 2023); hoàn thành việc tiêm vắc-xin phòng Covid-19; tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc mua sắm công và thanh tra, kiểm tra, giám định, kiểm định chất lượng trang thiết bị y tế; chủ động phát hiện sớm các vi phạm, hành vi lợi dụng dịch bệnh để trục lợi; xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm.
     4. Ngày 25/01/2022, thừa ủy quyền của lãnh đạo UBND tỉnh, Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với Ban Quản lý Khu Kinh tế cửa khẩu (KTCK) Đồng Đăng - Lạng Sơn tổ chức họp báo thông tin về tình hình xuất, nhập khẩu (XNK) hàng hóa và kiểm soát, ngăn chặn dịch Covid-19 tại khu vực cửa khẩu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Tại buổi họp báo, lãnh đạo Ban Quản lý Khu KTCK Đồng Đăng - Lạng Sơn đã thông tin đến các cơ quan báo chí về tình hình XNK hàng hóa và phòng, chống dịch Covid-19 tại khu vực cửa khẩu trên địa bàn tỉnh. Theo đó, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, phía Trung Quốc thực hiện chiến lược "Zero COVID", triển khai công tác phòng, chống dịch trong hoạt động XNK rất chặt chẽ, nghiêm ngặt, thường xuyên thay đổi phương thức giao nhận hàng hóa, từ ngày 25/11/2021, siết chặt hoạt động XNK hàng hóa ở mức cao hơn, do đó, năng lực thông quan tại các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh giảm mạnh. Cùng thời điểm, do vào vụ thu hoạch, lượng phương tiện hàng hóa từ các địa phương trong cả nước dồn về các cửa khẩu của tỉnh, dó đó tình trạng ùn ứ xe chở hàng xuất khẩu tại cửa khẩu, cao điểm lên tới 5.000 xe tồn chờ xuất khẩu. Tỉnh Lạng Sơn đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng chức năng tại cửa khẩu triển khai các giải pháp, duy trì và tăng cường cơ chế hội đàm, trao đổi thông tin, phát triển, triển khai nền tảng cửa khẩu số, thường xuyên khuyến cáo về hoạt động của các cửa khẩu, tạo điều kiện tối đa cho hoạt động XNK hàng hóa qua địa bàn, đồng thời, chỉ đạo triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp phòng chống dịch Covid-19, thực hiện có hiệu quả giải pháp "quản lý khép kín", xây dựng khu vực cửa khẩu thành vùng "xanh", vùng không có dịch, giảm phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu, quản lý phương tiện, hàng hóa, đảm bảo các điều kiện sinh hoạt cho các lái xe, bảo đảm an ninh trật tự, phòng, chống cháy nổ…. Với những giải pháp linh hoạt, tích cực, tình trạng ùn ứ tại các cửa khẩu đã giảm dần. Tính đến sáng 25/01/2022, tổng lượng xe chở hàng xuất khẩu tồn ở các bến, bãi trên địa bàn tỉnh chỉ còn 266 xe, giảm gần 20 lần so với ngày 19/12/2021, đồng thời, cửa khẩu Tân Thanh cũng được thông quan trở lại.Phát biểu tại cuộc họp báo, lãnh đạo Sở Thông tin và Truyền thông nhấn mạnh, thời gian qua, các cơ quan báo chí đã tích cực đồng hành, tuyên truyền về tỉnh Lạng Sơn, trong đó, các thông tin tích cực chiếm đa số, phát hiện, phản ánh kịp thời về những vấn đề tiêu cực xảy ra, được dư luận hoan nghênh. Đồng thời, đề nghị, trong thời gian tới, các cơ quan báo chí tiếp tục đồng hành cùng tỉnh, phản ánh đúng, trung thực, khách quan về tỉnh, tăng cường lan tỏa các thông tin tích cực, đặc biệt là các thông tin chính xác về tình hình XNK hàng hóa qua các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh, đẩy mạnh tuyên truyền về cửa khẩu số, góp phần ngăn chặn tiêu cực xảy ra, đồng bộ giải pháp nâng cao năng lực thông quan tại cửa khẩu./.
      5. Ngày 26/01/2022, Đoàn công tác Kiểm toán nhà nước và Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam do đồng chí Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Kiểm toán nhà nước làm trưởng đoàn đã đến thăm, tặng quà, chúc tết Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Lạng Sơn nhân dịp chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022. Tiếp đoàn công tác có đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; đồng chí Đoàn Thị Hậu, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy cùng lãnh đạo một số sở, ngành. Sau khi nghe những thông tin khái quát tình hình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh trong năm 2021 và phương hướng năm 2022, đồng chí Trần Sỹ Thanh, Tổng Kiểm toán Nhà nước bày tỏ vui mừng trước những kết quả tích cực mà toàn Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn đã đạt được trong năm qua, là tiền đề quan trọng để Lạng Sơn tiếp tục gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong năm 2022 và những năm tiếp theo. Chuẩn bị đón Tết Nhâm Dần 2022, đồng chí chúc Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Lạng Sơn an khang, thịnh vượng, tiếp tục giành được những thắng lợi quan trọng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nâng cao đời sống Nhân dân. Thay mặt các đồng chí lãnh đạo tỉnh, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh cảm ơn sự quan tâm, hỗ trợ của đoàn công tác và cá nhân đồng chí Trần Sỹ Thanh. Đồng chí khẳng định: Đây là sự động viên rất lớn về cả vật chất và tinh thần đối với Lạng Sơn, những phần quà hỗ trợ này sẽ được sử dụng đúng mục đích, bảo đảm hiệu quả, phân bổ đúng đối tượng, góp phần quan trọng vào công tác phòng, chống dịch của tỉnh và góp phần cho người nghèo, gia đình chính sách trên địa bàn tỉnh đón Xuân mới an vui, đầm ấm, chu đáo. Nhân dịp chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh cũng chúc đoàn công tác mạnh khỏe, hạnh phúc và đạt được nhiều thành công hơn nữa trong năm 2022.Với mong muốn chung tay cùng tỉnh Lạng Sơn trong công tác  phòng chống dịch bệnh Covid-19 và chăm lo Tết cho người nghèo, nhân dịp này, Tổng Công ty khí Việt Nam (PVGAS) đã trao tặng tỉnh Lạng Sơn 5 tỷ đồng; Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (PVFCCo) tặng 1 xe cứu thương hỗ trợ Lạng Sơn trong công tác phòng, chống dịch Covid-19. Đồng thời, PVGAS và Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam cũng trao tặng 1 tỷ đồng (mỗi đơn vị 500 triệu đồng) hỗ trợ phong trào Tết vì người nghèo tỉnh Lạng Sơn./.
 
Tin tổng hợp
 
 
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH
MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
 
 
 
    Ngày 03-02-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Dưới sự sáng lập và rèn luyện của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những ghềnh thác gian nan, thử thách khắc nghiệt, giành được những thắng lợi vĩ đại. Từ một thuộc địa của thực dân Pháp, Việt Nam đã trở thành một quốc gia thống nhất, độc lập, xây dựng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Từ thân phận mất nước, chịu hai tầng áp bức của thực dân và phong kiến, nhân dân Việt Nam đã trở thành chủ nhân của đất nước, cuộc sống được cải thiện toàn diện, không ngừng. Từ một đất nước với hàng ngàn năm văn hiến nhưng bị xóa tên trên bản đồ thế giới, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có vị thế và uy tín trên trường quốc tế ngày càng được tăng cường, ngày càng hội nhập sâu rộng vào các tiến trình vận động của thế giới. Tất cả những thành tựu vĩ đại ấy đều không tách rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò một nhân tố có ý nghĩa quyết định. Vai trò, ý nghĩa quyết định ấy thể hiện qua các bình diện: Mở đường cho cách mạng Việt Nam; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin hoạch định đường lối đúng đắn, sáng suốt cho cách mạng Việt Nam; tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
      1. Đảng Cộng sản Việt Nam mở ra con đường mới cho cách mạng Việt Nam
     Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, áp đặt một chế độ cai trị hà khắc, khai thác vơ vét tài nguyên, bóc lột người dân đến tận xương tủy. Với lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự cường dân tộc và truyền thống anh hùng bất khuất đấu tranh chống ngoại xâm, các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp liên tục nổ ra. Đó là những cuộc phản kháng của một số nhà vua, một bộ phận quan lại, văn thân, chí sĩ yêu nước, thương nòi hay những cuộc khởi nghĩa vũ trang của các hào trưởng, lãnh tụ nông dân. Đó là những cuộc bạo động dưới sự tổ chức của các đảng chính trị theo đường lối tư sản hay những phong trào đấu tranh bất bạo động, nhằm khai dân trí, chấn dân khí, để cải thiện dân sinh hay vận động sự hỗ trợ từ bên ngoài. Tuy nhiên tất cả các cuộc đấu tranh đó đều không đi đến thành công.Những nhà vua yêu nước phản kháng bị đày biệt xứ.Nhiều quan lại, tướng lĩnh của nhà nước phong kiến có tinh thần yêu nước bị xử tử bằng những hình thức dã man.Các cuộc khởi nghĩa vũ trang, các cuộc bạo động bị dìm trong bể máu. Hàng vạn người dân yêu nước đứng lên chống ách thống trị của thực dân ngoại bang bị bỏ tù hay bị giết hại. Sự thất bại của những phong trào đấu tranh đó là điều được báo trước bởi thiếu một đường lối đấu tranh đúng đắn, thiếu sự lãnh đạo của một chính đảng có nền tảng tư tưởng khoa học, có tổ chức mạnh mẽ và có sức thuyết phục đối với đông đảo các tầng lớp nhân dân.
     Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã bôn ba hải ngoại, dày công học tập, nghiên cứu để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, là người sáng lập, tổ chức, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam và trang bị cho Đảng một nền tảng tư tưởng khoa học, đúng đắn, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh - cuốn sách giáo khoa để đào tạo những cán bộ đầu tiên của Đảng, Người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1]Chánh cương vắn tắt đầu tiên của Đảng đã khẳng định con đường của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2]. Cương lĩnh chính trị tháng 10-1930 của Đảng xác định: “Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo giai cấp vô sản Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”[3].
     Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, lần đầu tiên ở Việt Nam có một đảng chính trị được tổ chức chặt chẽ theo người nguyên tắc của một chính đảng mácxít Lêninnít kiểu mới, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, lấy chủ nghĩa Cộng sản làm mục tiêu phấn đấu. Cùng với đó, lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện một con đường cứu nước mới, trong đó cuộc đấu tranh giải phóng vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân gắn liền với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
     Con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra cho cách mạng Việt Nam là con đường mới về chất so với những con đường mà các tổ chức, phong trào yêu nước trước đó đã đi theo. Nếu nhiều phong trào, cuộc vận động yêu nước trước khi Đảng Cộng sản ra đời ít nhiều đều mang tính bột phát mà không dựa trên cơ sở lý luận và nền tảng tư tưởng khoa học đúng đắn, thì con đường cách mạng do Đảng Cộng sản vạch ra trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, những cơ sở khoa học, thực tiễn trên cơ sở sự tổng kết về tính quy luật của lịch sử phát triển của nhân loại. Nếu hầu hết các phong trào đấu tranh trước khi Đảng Cộng sản ra đời đều chỉ nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể trước mắt mà không có mục tiêu cơ bản lâu dài, hoặc chỉ hướng tới mục tiêu xây dựng chế độ chính trị phong kiến hay chế độ tư sản đã lỗi thời, thì con đường cách mạng do Đảng Cộng sản vạch ra hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, mang lại tự do cho nhân dân và tiến hành công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội XHCN để bảo đảm vững chắc nhất nền độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra cho cách mạng Việt Nam là con đường mới phù hợp với quy luật lịch sử và xu hướng vận động của thời đại. Chính Cách mạng Tháng Mười Nga cùng tính chất ưu việt của cuộc cách mạng ấy đã là một minh chứng thực tế cho xu hướng vận động của thời đại, là tấm gương, sự cổ vũ cho sự lựa chọn con đường cách mạng mới của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam.
 
 
     2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin để sáng suốt hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam
     Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở sự kết hợp của phong trào công nhân và phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mục tiêu và hành động cách mạng. Trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo vào tình hình thực tế cụ thể của đất nước để đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
     Trước hết, đường lối chung của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam là gắn kết hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh giải phóng và giành độc lập dân tộc là cơ sở, điều kiện để tiến hành công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Xây dựng đất nước theo con đường XHCN, đến lượt nó, là điều kiện, cơ sở cho việc bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, mang lại ấm no, hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân. Giương cao đồng thời hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH là vấn đề có tính nguyên tắc, là điểm tựa, cột sống của toàn bộ hệ thống đường lối của Đảng. Trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam dựa vào đó làm cơ sở có tính nguyên tắc này để cụ thể hóa thành các chủ trương, Nhà nước Việt Nam dựa vào đó để triển khai xây dựng các chính sách hợp lý cụ thể qua các giai đoạn lịch sử của đất nước.
     Thứ hai, đường lối đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”. Sách lược vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vạch ra và được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng đã thể hiện đã thể hiện rất rõ ràng quan điểm đoàn kết tối đa các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong toàn dân tộc trong đấu tranh cách mạng. Cùng với việc khẳng định “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”, “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày”, đường lối của Đảng yêu cầu: “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt”, phải lôi kéo, tập hợp vào hàng ngũ cách mạng cả với “phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng”, chỉ “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng” thì mới đánh đổ. Đường lối đấu tranh cách mạng dựa vào sức mạnh đại đoàn kết toàn dân xuất phát từ nhận thức một vấn đề có tình quy luật của đời sống xã hội: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[4]. Đường lối của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện theo hướng cụ thể và tích cực hơn qua mỗi giai đoạn trong tiến trình cách mạng.
     Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một tôn trọng, bảo vệ sự công bằng, bình đẳng và sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai cấp, các tầng lớp dân cư, các dân tộc/tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, quyền tự do không tôn giáo, tín ngưỡng của người dân. Đảng coi Việt kiều là một phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, khuyến khích và hỗ trợ bà con Việt kiều giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tôn trọng luật pháp nhà nước nơi định cư.
     Thứ ba, đường lối xây dựng và phát triển đất nước vì nhân dân, lấy hạnh phúc nhân dân là mục tiêu tối thượng, cải thiện không ngừng đời sống nhân dân một cách toàn diện cả về vật chất và tinh thần, cả về kinh tế và văn hóa, xã hội. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển đất nước.
     Trước hết, đường lối ấy thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN mà Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân xây dựng. Trong chế độ XHCN, Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội, là tổ chức của những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; mục đích của chế độ xã hội đó là giải phóng con người, xóa bỏ người bóc lột người, thực hiện dân chủ, công bằng trong mọi chính sách, mọi bước đi; trong xã hội đó, quan hệ giữa người với người là tự do, bình đẳng, quan hệ con người với thiên nhiên là hài hòa, bền vững.
     Phù hợp với tính chất ưu việt của chế độ, ngay trong những năm tháng khó khăn ác liệt của chiến tranh giải phóng, Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam vẫn giành sự quan tâm đến phát triển kinh tế, xây dựng văn hóa, cải thiện các điều kiện xã hội để bảo đảm tốt nhất đời sống của nhân dân. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trên cơ sở phát huy sáng kiến và sức sáng tạo của nhân dân, tiếp thu chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối Đổi mới với ba trụ cột là: Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần, động lực phát triển kinh tế - xã hội. Về kinh tế, Đảng chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam “là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối”[5]. 
     Trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò, vị trí, ý nghĩa của văn hóa trong đời sống xã hội. Cùng với văn hóa, các vấn đề xã hội được quan tâm thích đáng vì mục đích phát triển một xã hội hài hòa, dân chủ, công bằng, tạo cơ hội cho mọi người dân được sống trong hạnh phúc, được phát triển tự do, toàn diện, không để ai bị bỏ lại phía sau. Thực hiện đường lối đổi mới, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước của Việt Nam đã đạt được những thành tựu mang tính lịch sử.Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước được tăng cường.Đời sống của nhân dân được cải thiện cơ bản, toàn diện cả về vật chất và tinh thần, cả về kinh tế và văn hóa, xã hội.
     Thứ tư, đường lối quốc phòng, an ninh, đối ngoại cũng được đổi mới, phù hợp với bối cảnh chung, với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
     Về đối ngoại, đường lối chung của Đảng nhất quán trên cơ sở nguyên tắc độc lập, tự chủ, hai bên cùng có lợi; tích cực hội nhập quốc tế, coi trọng mối quan hệ với anh em, bạn bè, trên thế giới, góp phần vì hòa bình, tiến bộ và hạnh phúc của con người. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[6].
     Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam coi quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[7]. Để hoàn thành được nhiệm vụ quan trọng, nặng nề đó, cần thiết phải tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng thế trận lòng dân; xây dựng và củng cố vững chắc thể trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại.
 
 
     3. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức thắng lợi những nhiệm vụ to lớn của cách mạng Việt Nam
     Trong hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân, tổ chức thực hiện những nhiệm vụ to lớn, thu được những thắng lợi vĩ đại, mang tầm vóc lịch sử.
     Thứ nhất, phải kể đến thắng lợi vĩ đại của công cuộc đấu tranh giải phóng, giành độc lập, tự do và thống nhất cho Tổ quốc, dân tộc và đất nước. Đó là cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ, hy sinh, chống lại những kẻ thù hùng mạnh hàng đầu thế giới, những mưu mô thâm độc chưa từng thấy.
     Chỉ với 5.000 đảng viên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt chớp thời cơ thuận lợi, lãnh đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa, đánh đổ chế độ cai trị của hai đội quân thực dân Pháp, phát xít Nhật, giành quyền độc lập cho dân tộc, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á, làm nên chiến thắng vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đánh dấu sự khởi đầu thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới.
    Chiến thắng Điện Biên Phủ là một võ công vô cùng oanh liệt của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc Kháng chiến trường kỳ 9 năm chống lại đội quân viễn chinh của đế quốc Pháp với sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ. Cơ sở quyết định cho thắng lợi ấy là sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, dựa vào sức mình là chính, kết hợp sức mạnh quật khởi của dân tộc với sự hỗ trợ, ủng hộ to lớn của các đảng cộng sản và phong trào yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Thắng lợi ấy đã mở ra mở ra thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, trong đó đất nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược - xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh chống xâm lược để giải phóng miền Nam.
     Thắng lợi vĩ đại của cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc đã kết thúc tình trạng đất nước có chiến tranh kéo dài trên 30 năm, mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc, cả nước thống nhất toàn vẹn, xây dựng và phát triển theo con đường XHCN. Thắng lợi vĩ đại của cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước một lần nữa chứng minh vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản, sức mạnh bất khả chiến bại của lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò rất quan trọng của sự đoàn kết, hỗ trợ của các nước trong cộng đồng XHCN, sự ủng hộ của anh em, bạn bè và lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
    Thứ hai, đó là thắng lợi của công cuộc Đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước ngày càng to đẹp, đàng hoàng hơn.Đi ra từ những cuộc chiến tranh kéo dài trong suốt hơn 30 năm, Việt Nam bước vào cộng cuộc xây dựng đất nước với những khó khăn chồng chất.Nhiều thành phố, làng mạc, đường giao thông, nhà máy, xí nghiệp, công trình xây dựng bị phá hủy.Hàng chục triệu thương binh, bệnh binh, trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, nạn nhân chất độc màu da cam và người có công trong kháng chiến.Đất nước nằm trong số 15 nước nghèo nhất thế giới với hơn 60% dân thuộc diện nghèo. Là một nước nông nghiệp nhưng hằng năm Nhà nước phải nhập khẩu hơn 2 triệu tấn lương thực... Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sau 35 năm thực hiện đường lối Đổi mới, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
    Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam đã trở thành một quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình thấp, đạt 3.512 USD/người (số liệu năm 2020). GDP của đất nước tăng trưởng trung bình 7%/năm; quy mô GDP không ngừng tăng lên (GDP năm 2020 gần 350 tỷ USD).Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam trở thành một trong 3 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới cùng nhiều mặt hàng nông sản khác với quy mô và giá trị lớn.
     Đời sống của nhân dân được cải thiện một cách cơ bản, toàn diện.Tỷ lệ hộ nghèo năm 2020 chỉ còn dưới 3%.Đến nay, hơn 60% số xã trong toàn quốc đạt chuẩn nông thôn mới. Hệ thống giao thông, hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn được cải thiện, đường ô tô đã kết nối đến trung tâm của hầu hết các xã; các xã đều có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và mạng kết nối điện thoại. Hiện nay Việt Nam có 95% người người trưởng thành biết đọc, biết viết; 92% người dân có bảo hiểm y tế, trong đó người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới và hiện có hơn 70% người dân sử dụng mạng Internet. Trong 35 năm qua, số sinh viên đại học, cao đẳng tăng 17 lần. Tuổi thọ trung bình của cư dân đạt 73,7 năm. Việt Nam là một trong những nước được Liên hợp quốc công nhận đã đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Từ một nước bị bao vây cấm vận, hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ trong tổng số 193 thành viên Liên hợp quốc, trong số đó có 3 nước là “quan hệ đặc biệt”, 17 nước là “đối tác chiến lược” và 13 nước là “đối tác toàn diện”. Việt Nam cũng đang là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO, v.v.. Việt Nam đang có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời tham gia nhiều diễn đàn trên thế giới; đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 3 FTA thế hệ mới có tiêu chuẩn rất cao. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2021 của Việt Nam dự báo vượt mốc 660 tỷ USD, bằng khoảng 150% GDP, đưa Việt Nam tham gia vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới về thương mại quốc tế.  Sau hơn 30 năm mở cửa hội nhập, Việt Nam đã thu hút được hơn 400 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó đã giải ngân được khoảng 250 tỉ USD v.v…
     Thứ ba, đó là thắng lợi của phương pháp cách mạng sáng tạo, xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm hay, bài học tốt của thế giới.
     Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định phương pháp cách mạng sáng tạo, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, trước sau như một kiên định con đường XHCN đã chọn nhưng mềm dẻo, linh hoạt trong lựa chọn phương pháp, giải pháp cốt nhằm mục đích hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ chính trị đặt ra. Chỉ 7 tháng sau ngày thành lập và công bố đường lối cách mạng của Đảng thể hiện trong Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, tại Đại hội tháng 10-1930, Đảng đã quyết định đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, “Thủ tiêu Chánh cương Sách lược và Điều lệ cũ” để tranh thủ sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản. Cho dù vậy, Đảng vẫn kiên trì với chủ trương đoàn kết các lực lượng yêu nước, ủng hộ độc lập dân tộc, kể cả một bộ phận thuộc giai cấp tư sản, tầng lớp điền chủ để tập hợp lực lượng tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc. Với chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, nhiều nhà tư sản dân tộc, địa chủ, nhân sỹ yêu nước đã tự nguyện đứng vào hàng ngũ cùng giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, góp phần của cải, tài năng và thậm chí cả xương máu vào cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc. Đặc biệt tháng 2-1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam và tách các bộ phận của Lào và Campuchia để thành lập các đảng cách mạng riêng của hai nước đó. Thực tiễn cách mạng của ba nước Đông Dương đã chứng minh chủ trương đó là hết sức đúng đắn, sáng suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho các đảng chủ động phát huy vai trò, sức mạnh dân tộc của mình trong đấu tranh giành độc lập tự do. Đồng thời đó cũng là cơ sở cơ bản tạo điều kiện cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đoàn kết gắn bó, tương trợ lẫn nhau trong đấu tranh cũng như trong xây dựng.
    Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tình hình trong nước rất phức tạp. Ở miền Bắc, đội quân của chính quyền Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch lấy danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp kéo theo nhiều đảng phái, tổ chúc chính trị người Việt phản động lưu vong, gây ra nhiều vụ việc chống đối chính quyền nhân dân non trẻ, kích động phá hoại đoàn kết dân tộc. Ở miền Nam, quân đội Pháp theo gót quân đội Anh vào giải giáp, âm mưu chiếm Việt Nam một lần nữa. Trong điều kiện đó, tháng 11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Thực chất, Đảng rút vào hoạt động bí mật để tạo điều kiện cho cách mạng thu hút rộng rãi các lực lực lượng ủng hộ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tránh sự kích động phá hoại của các tổ chức chính trị phản động.
     Đặc biệt, đường lối đổi mới của Đảng được bắt đầu tại Đại hội VI của Đảng năm 1986 là biểu hiện sinh động, bằng chứng đầy sức thuyết phục cho phương pháp cách mạng sáng tạo, gắn bó với thực tiễn đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đánh giá thẳng thắn tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, nhìn nhận lại những vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH để đưa ra một đường lối mới phù hợp với điều kiện đất nước, bảo đảm giữ vững định hướng XHCN, mở đường cho những thành tựu có tính lịch sử của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
     4. Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc xây dựng phát triển đất nước trong giai đoạn mới
     Với vai trò là yếu tố then chốt, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ trở thành yếu tố quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời gian tới. Nhận thức rõ vai trò to lớn, nặng nề đó của Đảng, Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng đề ra 10 nhiệm vụ giải pháp của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong những năm tới:
    1) Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong mỗi giai đoạn.
     2) Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh phản bác những âm mưu, luận điệu chống đối, phá hoại.
     3) Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ đảng viên, đồng thời với tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức.
     4) Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.
     5) Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.Thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đảng viên.
     6) Tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu.
     7) Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; hoàn hiện các quy chế, quy định; kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước.
     8) Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; hoàn thiện và thực hiện quy chế, chế định về sự giám sát của nhân dân đối tổ chức đảng, đảng viên.
    9) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và phúc lợi công cộng cho cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác.
     10) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, bao gồm từ công tác lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, vai trò, trách nhiệm người đứng đầu, giám sát quyền lực, cho đến phương pháp ra nghị quyết quán triệt học tập nghị quyết, nghiên cứu lý luận.
*
     Tóm lại, bằng cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua đều chỉ ra và khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vai trò ấy yêu cầu và đòi hỏi Đảng phải tăng cường thực chất công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực vượt qua những khó khăn thách thức, lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
 

[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, xuất bản lần thứ ba, Nxb CTQG - Sự thật, HN, 2011, tr. 289.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, xuất bản lần thứ ba, Nxb CTQG - Sự thật, HN, 2011, tr.01.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.2, Nxb CTQG-Sự thật, HN, 2002, tr. 100.
[4] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. CTQG-Sự thật, HN, 2011, t. 10, tr. 453.
[5] Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, báo Nhân dân, số ra ngày 01-8-2021.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIItập 1, Nxb. CTQG-Sự thật, HN, 2021, tr. 161-162.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIItập 1, Nxb. CTQG-Sự thật, HN, 2021, tr. 155-156.
 
Nguồn: hdll.vn
 
 
 
QUA GIAN KHÓ, TIN TƯỞNG VÀ KỲ VỌNG
 
     (TG) - Xuân Nhâm Dần dường như đến sớm hơn. Dịp kỷ niệm 92 năm Đảng ta ra đời cùng đến với Tết cổ truyền thiêng liêng của dân tộc. Chúng ta chào đón mùa xuân năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Khó khăn rồi sẽ qua đi. Bản lĩnh và niềm tin của một Đảng cầm quyền, ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân không có bất kỳ lợi ích nào khác, sẽ ngày càng được nâng cao.
 
 
     Cánh cửa năm 2021 vừa khép lại. Tùy vào từng vị trí, hoàn cảnh công tác và tâm trạng mỗi người mà cảm thấy thời gian trôi đi cũng thật khác thường, vừa như quá nhanh, lại vừa như quá chậm.Chậm, khi những khu phố, những thôn xóm, những nhà máy phải đóng cửa dài ngày vì “làn sóng thứ tư” COVID-19 hoành hành. Nhiều địa phương, trong đó có Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh phải giãn cách theo các cấp độ khác nhau. Chậm,khi mấy trăm con người phải cách ly nhiều ngày tại các khu tập trung trong khi cả núi công việc chờ đợi họ. 
     Nhưng thời gian chẳng khác nào mũi tên bay đối với các thầy thuốc và cán bộ, chiến sỹ nơi tuyến đầu chống dịch. Những đêm trắng cứu chữa người bệnh, không ai còn kịp nghĩ đến thời gian. Một ca bệnh nặng được cấp cứu kịp thời và thoát hiểm, một cháu bé có mẹ bị nhiễm thứ virus chết người cất tiếng khóc chào đời, ấy là khi một bình minh thắp sáng trong phòng bệnh. Để đón những bình minh ấy nhiều bác sỹ, y sỹ, điều dưỡng viên đã vắt kiệt sức mình. Để giành lại sự sống cho người bệnh có hàng trăm thầy thuốc, chiến sỹ công an, quân đội, các nhà hảo tâm, đã nhiễm SARS-CoV-2, trong đó những người đã hy sinh. Thời gian cũng trôi thật nhanh qua những đợt, những mùa tình nguyện của những đoàn quân áo trắng, áo xanh.Nay ngược phương Bắc, mai xuôi phương Nam, hối hả như thời chiến tranh, bởi thứ “giặc” trong thời thế giới trở thành cái “làng” như cơn gió đen cuộn xoáy.Người đi chống dịch nhanh một phút, một giờ, khẩn trương, tỉnh táo và linh hoạt có thể thay đổi tình thế cuộc chiến.
 
 
     Thời gian càng quá nhanh khi tờ lịch trên tường vô tư báo hết tháng, hết quý rồi hết năm. Những kết quả phát triển kinh tế - xã hội theo con số thống kê mới nhất đã không thuận theo ý chúng ta. Thời gian cao điểm chống dịch, hàng nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ phải dừng sản xuất, giải thể, tính chung chín tháng, cả nước có tới hơn 85.000 doanh nghiệp rời khỏi thị trường. Hầu hết, các ngành kinh tế lao đao, nhất là hàng không, du lịch và nhiều ngành dịch vụ. Đi liền đó là lao động trong các nhà máy, xí nghiệp, lao động tự do mất việc làm. Chín tháng năm 2021 tăng trưởng GDP chỉ đạt 1,42%, riêng Quý III suy giảm sâu, ta thường nói nôm na là “tăng trưởng âm”. Kinh tế khó khăn kéo theo rất nhiều hệ lụy khác.
     Trong khó khăn, trong thử thách đã sáng lên truyền thống nhân nghĩa Việt Nam. Lòng dân đất Việt thời nào cũng vậy, thương người như thể thương thân. Từ việc giúp nông dân vùng dịch tiêu thụ nông sản đến những việc làm nhân ái, như hình thành những cây “ATM gạo”, những quán cơm 0 đồng, quán nước 0 đồng, cửa hàng 0 đồng, ai cần cứ lấy, ai đủ xin nhường người khác. Nhiều số 0 hợp thành vô số, thành sức mạnh cộng đồng lớn lao, bền chặt, “từ đây người biết thương người, từ nay người biết yêu người”(1). Trong khó khăn, trong thử thách xuất hiện những quyết định táo bạo, những sáng tạo mới, phù hợp với thực tiễn, nhiều khi biến rủi thành may, biến nguy thành cơ. Sự thích nghi ấy được định danh: trạng thái bình thường mới. Từ tháng 11/2021, thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP về ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”, cũng là khi cả nước đã cơ bản “phủ xanh” vaccine, cả nước đã chuyển sang giai đoạn chống dịch mới, thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19. Chủ trương của Đảng, Nhà nước ta thật sáng rõ: Bảo đảm mục tiêu kép, nhưng đặt sức khỏe, tính mạng người dân lên trên hết, trước hết. Các giải pháp phòng, chống dịch dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với thực tiễn và điều kiện của đất nước; bảo đảm người dân được bảo vệ tốt nhất trước dịch bệnh, được tiếp cận dịch vụ y tế sớm nhất, nhanh nhất, ngay từ cơ sở, nhưng không gây ách tắc cho lưu thông, sản xuất.
     Chuyển sang giai đoạn mới, diễn biến dịch bệnh còn hết sức phức tạp. Số ca nhiễm trong cộng đồng còn cao do tiếp tục có những biến thể mới, tuy nhiên, khắp nơi trong cả nước, những “pháo đài” phường xã, thôn làng, những chủ thể chống dịch là mỗi người dân đã bình tĩnh và chủ động hơn. Muôn đời nay, kinh nghiệm đánh giặc và dựng xây đất nước cho chúng ta bài học, người chiến thắng có thể không phải là người tài nhất, khỏe nhất, vũ khí tối tân nhất, mà là người biết thích ứng.Các nhà làm phim nước ngoài đã mượn hình ảnh cây sậy yếu ớt để nói về sự thích ứng. Mỗi lần gió to cây sậy ngả rạp, nhưng khi gió lặng nó lại dắt tay nhau ào lên đứng thẳng. Cuối năm, kinh tế đất nước đã có dấu hiệu phục hồi.“Mở cửa” bầu trời, hàng không nối lại đường bay. “Mở cửa” thăm dò một số điểm du lịch, miệt vườn, đảo ngọc xa xôi, du khách về đây từ khắp bốn phương trời. Một số khối lớp học sinh phổ thông đã trở lại trường học sau nhiều tháng học online, xa thầy vắng bạn. Đặc biệt, hầu hết các doanh nghiệp hồi giữa năm phải đóng cửa nay đã hoạt động trở lại với phương châm thích ứng an toàn.
 
 
Người vào bệnh viện ở Hà Nội sẽ được kiểm tra thân nhiệt
và khai báo lịch trình di chuyển. Ảnh minh họa: Minh Quyết/TTXVN
 
     Tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam tổ chức đầu tháng 12/2021 với thông điệp “Phục hồi và phát triển bền vững”,các nhà khoa học nhất trí cao với “phương án” hai chữ P và hai chữ C. Hai chữ P là phục hồi và phát triển, với lưu ý, không phát triển bằng mọi giá, mà phải phát triển bền vững. Vừa chú ý đến những giải pháp cấp bách trước mắt để duy trì các động cơ tăng trưởng, các động lực tăng trưởng, để kiểm soát dịch bệnh, hỗ trợ cho phục hồi và tăng trưởng, vừa bám vào mục tiêu dài hạn trong việc tái cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, nhưng bền vững. Còn hai chữ C là chính sách và cuộc sống. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh: “Nếu các chính sách, nhất là chính sách vĩ mô mà không xuất phát từ hơi thở, thực tiễn cuộc sống thì bản thân chính sách đó sẽ bị sai lệch đi. Nếu thực tiễn cuộc sống không được phản ánh vào trong chính sách thì bản thân chính sách không đi vào cuộc sống trôi chảy và hiệu quả được”. Càng trong gian khó, càng phải thể hiện ý chí, khát vọng và bản lĩnh Việt Nam.Ngoại lực là quan trọng, nhưng nội lực là quyết định.Bước vào năm mới, công việc rất cần trong lúc này, thiết lập chương trình phục hồi và phát triển kinh tế, trước mắt là hai năm2022-2023. Các doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ, cùng các ngành hữu quan làm nòng cốt trong thực hiện chương trình phát triển kinh tế bền vững. Muốn vậy phải có chiến lược kinh doanh phù hợp; đi sâu cải cách và tạo dựng thể chế mới; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hoàn thiện môi trường kinh doanh với những mô hình kinh doanh mới, tận dụng thời cơ hội nhập quốc tế. 
    “Bình thường mới” hay còn cách nói khác là đứng dậy, lấy đà sau cú ngã. Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, GDP năm 2021có thể giữ được tốc độ tăng trưởng dương (khoảng 2% - 2,5%). Tuy đó là mức thấp nhất từ hơn 10 năm qua, nhưng vẫn là dấu hiệu khả quan khi trên thế giới nhiều nền kinh tế suy giảm sâu. Năm tới, quá trình phục hồi kinh tế có thể diễn ra theo nhịp độ khác nhau, thể hiện qua mô hình đồ thị tăng trưởng GDP theo hình các chữ V, U, hay L. Nhưng dù phục hồi theo mô hình nào thì cũng đòi hỏi phải kiểm soát thật tốt dịch bệnh, đưa các doanh nghiệp vào hoạt động có hiệu quả. Ngạn ngữ có câu: “Muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau”. Người lao động luôn là tài sản lớn của doanh nghiệp. Nguồn nhân lựccũng là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tái khởi động các kế hoạch phục hồi nền kinh tế, hướng đến tầm nhìn xa hơn.
    Vững tin trên đường lớn, Đảng ta tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn, để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đảng không chỉ chăm lo xây dựng về công tác tư tưởng, tổ chức mà còn coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức về công tác cán bộ. Cả ba nhiệm kỳ Đại hội XI, XII, XIII, Trung ương đều ra Nghị quyết 4 về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Con số 4 gợi nhiều ấn tượng, nhiều trăn trở, khẳng định quyết tâm lớn của Đảng, khẳng định trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, người giữ cương vị chủ chốt. Chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là chống thứ “giặc ở trong lòng” như Bác Hồ căn dặn. Cùng với những quy định về nêu gương, về chống lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ, Trung ương tiếp tục bổ sung những quy định, những điều đảng viên không được làm, quy định về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ,v.v.. Điều đó thể hiện sự kiên quyết, kiên trì của Đảng, tiếp tục “luật hóa” các chủ trương, có người ví nó như “chuông cứu hỏa” để ngăn chặn những đám cháy do tham, sân, si gây ra. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng: “Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm”.
    Ngang tầm nhiệm vụ không phải lời hô hào chung chung, không phải một khái niệm trừu tượng. Tập thể cấp ủy, chi bộ, đảng bộ cơ sở, quần chúng nhân dân rất tinh tường, thấy rõ ai ngang tầm, ai đuối sức, ai là người góp mặt mà không góp sức, góp công. Người cán bộ ngang tầm nhiệm vụ biết tiến thoái đúng lúc, biết thừa nhận, ghi nhận và chấp nhận người tài giỏi, người có ích hơn mình. Giống như quy luật cây thay lá mới trong mùa xuân, lá cành già cỗi sẽ rụng xuống.Thay thế là chồi non lá biếc, là sức bám của rễ, sức vươn của cành.
Chào năm mới! Qua gian khó, vững niềm tin và kỳ vọng!
------------------------
(1)   Lời bài hát Mùa xuân đầu tiên, tác giả Văn Cao.
Nguồn: tuyengiao.vn

Tin liên quan