Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ

TIN TỔNG HỢP THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN THÁNG 3/2022

01-03-2022 13:57

 
     Ngày 17/02/2022, UBND tỉnh tổ chức Hội nghị trực tuyến 2 cấp (tỉnh, huyện) tổng kết phong trào thi đua, công tác khen thưởng năm 2021 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2022. Dự hội nghị tại điểm cầu tỉnh có đồng chí Hoàng Văn nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch Hội đồng Thi đua khen thưởng (TĐKT) tỉnh; đồng chí Đoàn Thị Hậu, Chủ tịch HĐND tỉnh; đồng chí Dương Xuân Huyên, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; lãnh đạo Ủy ban MTTQVN tỉnh, các sở, ban, ngành, đoàn thể, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Năm 2021, với sự đồng thuận và quyết tâm cao của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh, phong trào thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; chất lượng các phong trào thi đua theo đợt, chuyên đề tiếp tục được nâng lên, qua đó đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu, xuất sắc với các mô hình, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cách làm hay trong lao động, sản xuất, học tập và công tác. Công tác khen thưởng được chú trọng, quan tâm nhiều hơn đến đối tượng là các tập thể nhỏ, đơn vị cơ sở, các cá nhân là người trực tiếp lao động, học tập, công tác, chiến đấu. Toàn tỉnh có 74 tập thể, cá nhân được khen thưởng cấp Nhà nước; có 2.677 tập thể, cá nhân được UBND tỉnh khen thưởng, tỷ lệ khen thưởng cho các đơn vị cơ sở, các tập thể nhỏ chiếm 67,8%, tăng 5,3% so với năm 2020, khen thưởng cho cá nhân lao động trực tiếp đạt 56%.
     Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy biểu dương và chúc mừng những thành tích, đóng góp quan trọng của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và tầng lớp Nhân dân trong các phong trào thi đua yêu nước; đồng chí đề nghị các cấp, ngành tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng, gắn với việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, việc tổ chức phong trào thi đua phải tiến hành thường xuyên, liên tục, đổi mới, sáng tạo, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, bảo đảm khen thưởng chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch, tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ những tấm gương “người tốt, việc tốt”, đồng thời tiếp tục kiện toàn tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách.
     Phát biểu bế mạc, Chủ tịch UBND tỉnh Hồ Tiến Thiệu đề nghị các cơ quan, đơn vị tổ chức, triển khai có hiệu quả ngay từ đầu năm phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, hưởng ứng và tổ chức thực hiện các phong trào thi đua nòng cốt do Thủ tướng Chính phủ phát động, kết hợp tổ chức các phong trào thi đua theo đợt, chuyên đề; khuyến khích công chức, viên chức, người lao động thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong công tác, lao động, sản xuất; cơ quan thường trực Hội đồng Thi đua khen thưởng tỉnh tiếp tục tham mưu triển khai, thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Các cơ quan thông tin, truyền thông tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới và đa dạng hình thức, nội dung tuyên truyền, tạo sức lan tỏa. Đồng thời quan tâm kiểm tra, giám sát công tác thi đua, khen thưởng bảo đảm đúng quy định pháp luật, phù hợp với thực tế, thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
     Trong chương trình hội nghị, tại điểm cầu tỉnh, thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy đã trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì cho Sở Kế hoạch và Đầu tư; 19 tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, dẫn đầu phong trào thi đua năm 2021 được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Cờ thi đua; 14 tập thể có thành tích xuất sắc được bình xét trong các cụm thi đua được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh; 04 cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác được nhận Danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh.
     Ngày 17/02/2022, Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) ban hành danh mục 3 loại thuốc điều trị Covid-19 Molnupiravir sản xuất trong nước, được cấp giấy phép lưu hành có điều kiện tại Việt Nam gồm: Molravir 400, hàm lượng Molnupiravir 400mg, dạng viên nang cứng, do Công ty cổ phần Dược phẩm Boston Việt Nam sản xuất; Movinavir, hàm lượng 200mg Molnupiravir, dạng viên nang cứng, do Công ty cổ phần Hóa - Dược phẩm Mekophar sản xuất; Molnuporavir Stella 400, hàm lượng 400mg Molnupiravir, dạng viện nang cứng, do Công ty TNHH liên doanh Stellapharm - Chi nhánh 1 sản xuất. Việc cấp phép cho các loại thuốc này có hiệu lực 3 năm từ ngày ký ban hành quyết định. Cục Quản lý Dược yêu cầu các cơ sở sản xuất và cơ sở đăng ký thuốc sản xuất theo đúng hồ sơ, tài liệu đăng ký với Bộ Y tế; phối hợp với các cơ sở điều trị thực hiện đúng các quy định hiện hành về thuốc kê đơn, theo dõi an toàn, hiệu quả, tác dụng không mong muốn của thuốc trên người Việt Nam và tổng hợp, báo cáo theo quy định. Ngoài ra, Cục cũng đề nghị sở y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thông báo cho cơ sở khám chữa bệnh, các cán bộ y tế, cơ sở cung ứng thuốc trên địa bàn thông báo cho bệnh nhân về các lợi ích, rủi ro khi sử dụng thuốc, các phương pháp điều trị, các thuốc khác có thể thay thế Molnupiravir trong điều trị Covid-19. Đồng thời, Cục yêu cầu các đơn vị tăng cường theo dõi, giám sát, phát hiện các trường hợp xảy ra phản ứng có hại của thuốc (nếu có), gửi báo cáo về Trung tâm quốc gia về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc (Hà Nội) hoặc Trung tâm khu vực về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc (TP Hồ Chí Minh) theo quy định. Trong quá trình lưu hành thuốc, căn cứ vào việc theo dõi, cập nhật thông tin về độ an toàn, hiệu quả của 3 loại thuốc trên, Cục Quản lý Dược cho biết có thể quyết định thu hồi giấy đăng ký lưu hành đã cấp này theo quy định của Khoản 1, Điều 58, Luật Dược.Ngày 23/02/2022, Cục quản lý Dược đã chính thức công bố giá bán thuốc điều trị Covid-19 Molnupiravir, cụ thể thuốc Molravir 400 có giá là 11.500 đồng/viên; thuốc Movinavir có giá 8.765 đồng/viên; thuốc Molnupiravir Stella 400mg có giá là 12.500 đồng/viên.
     Ngày 18/02/2022, đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì cuộc họp triển khai nền tảng cửa khẩu số tỉnh Lạng Sơn. Dự họp có lãnh đạo các sở, ngành, cơ quan, đơn vị, một số doanh nghiệp hoạt động tại khu vực cửa khẩu. Theo báo cáo tại cuộc họp, từ tháng 7/2021, Sở Thông tin và Truyền thông đã tiến hành khảo sát, lựa chọn phương án, giải pháp công nghệ và lựa chọn đơn vị triển khai thí điểm, thi công lắp đặt kết nối hệ thống Camera AI, kết nối cơ sở dữ liệu, kiểm thử các chức năng, rà soát đánh giá an toàn thông tin, hướng dẫn tập huấn cho các cơ quan, đơn vị sử dụng; nền tảng cửa khẩu số chính thức triển khai thí điểm tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị từ ngày 14/01/2022 và tại cửa khẩu Tân Thanh từ ngày 10/02/2022. Khi áp dụng nền tảng cửa khẩu số, doanh nghiệp chỉ cần khai thông tin 1 lần và các cơ quan chức năng sử dụng các thông tin này để xử lý, giám sát, thống kê, do đó nền tảng cửa khẩu số đi vào hoạt động sẽ giảm bớt được rất nhiều thời gian, công sức, khối lượng công việc của công chức, viên chức, lực lượng chức năng và đặc biệt là các doanh nghiệp làm việc tại các cửa khẩu, đảm bảo tính công khai, minh bạch, chống vượt tuyến trong toàn bộ các hoạt động của cửa khẩu. Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, cho ý kiến về thời gian triển khai thực hiện chính thức nền tảng cửa khẩu số, hoàn thiện các trang thiết bị phục vụ cửa khẩu số, công tác hướng dẫn, tuyên truyền các doanh nghiệp thực hiện thông quan hàng hóa trên nền tảng cửa khẩu số,… Phát biểu kết luận cuộc họp, Chủ tịch UBND tỉnh Hồ Tiến Thiệu ghi nhận, biểu dương những nỗ lực, cố gắng của các cơ quan, đơn vị trong việc triển khai nền tảng cửa khẩu số, đồng thời yêu cầu từ ngày 21/02/2022 tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đại lý hải quan tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị và cửa khẩu Tân Thanh phải khai báo thông tin trực tuyến trên nền tảng cửa khẩu số. Đề nghị Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì phối hợp với cơ quan liên quan bố trí 2 tổ để hỗ trợ các doanh nghiệp, chủ hàng, lái xe thực hiện khai báo trên nền tảng, tham mưu UBND tỉnh thành lập Tổ công tác chỉ đạo thực hiện cửa khẩu số; tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức để các doanh nghiệp thực hiện, cùng đó tiếp tục hoàn thiện các tính năng, tác dụng của phần mềm, xử lý ngay các tình huống phát sinh. Ban quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn khẩn trương tham mưu lắp đặt hệ thống barie tự động, làm đầu mối phối hợp với các lực lượng ở cửa khẩu để xử lý các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Công an tỉnh theo dõi, nắm chắc tình hình, đảm bảo an ninh, trật tự để hoạt động thông quan hàng hoá xuất nhập khẩu được thông suốt. Đối với các lực lượng hoạt động tại cửa khẩu cần nhất quán quan điểm thực hiện nền tảng cửa khẩu số, tăng cường công tác phối hợp để xử lý kịp thời tình huống phát sinh.
     Ngày 25/02/2022, Hội nghị gặp gỡ đầu xuân năm 2022 giữa bốn tỉnh Cao Bằng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang (Việt Nam) và Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc) diễn ra với hình thức trực tuyến. Hội nghị kết nối 10 điểm cầu tại Việt Nam và Trung Quốc với sự tham dự của lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc), các tỉnh Cao Bằng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang và Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây. Đây là kỳ gặp gỡ đầu xuân thứ 6 giữa bốn tỉnh biên giới Việt Nam và Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc). Trong bối cảnh nhiều khó khăn do dịch bệnh Covid-19, hai bên đã nỗ lực duy trì các hoạt động giao lưu, trao đổi nhằm tăng cường mối quan hệ hữu nghị, tin cậy chính trị, cùng nhau thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phòng chống dịch bệnh, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, hợp tác trên các lĩnh vực trọng điểm. Về hợp tác y tế, phòng chống dịch bệnh Covid-19 qua biên giới, hai bên phối hợp chặt chẽ, triển khai hiệu quả hoạt động hợp tác thông qua các hình thức linh hoạt, phù hợp. Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc) đã hỗ trợ các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam 550.000 liều vaccine Sinopharm và thiết bị, vật tư y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh. Bốn tỉnh biên giới Việt Nam và Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc) tập trung chỉ đạo các cơ quan chức năng thúc đẩy giao thương, tiện lợi hoá thông quan, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Hợp tác trong xây dựng, kết nối giao thông cũng được tập trung đẩy nhanh tiến độ khởi công, xây dựng các dự án cao tốc kết nối cửa khẩu Đồng Đăng, Trà Lĩnh, Móng Cái. Cao Bằng và Quảng Tây tiếp tục hoàn thiện hạ tầng, nâng cấp cảnh quan, chuẩn bị tổ chức Lễ khai thông lối mở Bản Giốc - Đức Thiên. Tỉnh Lạng Sơn chủ trì, nghiên cứu phương án phối hợp với Quảng Tây khởi động vận hành thử nghiệm Khu hợp tác du lịch Tân Thanh - Pò Chài. Cùng với đó là tăng cường giao lưu, đối ngoại nhân dân, hợp tác quản lý biên giới, cùng nhau xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định để phát triển. Để tiếp tục tăng cường trao đổi, làm sâu sắc quan hệ hợp tác thiết thực trong năm 2022, các bên đề xuất tiếp tục phát huy cơ chế hợp tác, trao đổi, phối hợp phòng chống dịch bệnh cả trên biển, cửa khẩu biên giới, đường mòn lối mở, thiết lập các “vùng xanh” an toàn ở khu vực biên giới, cửa khẩu, kéo dài thời gian thông quan, tạo thuận lợi nhất cho hoạt động xuất nhập khẩu, không để ách tắc tại các cửa khẩu, đảm bảo chuỗi cung ứng toàn cầu. Đồng thời, hai bên cần tăng cường mở rộng hợp tác kinh tế thương mại, tận dụng cơ hội từ các hiệp định kinh tế khu vực và quốc tế, đặc biệt là hợp tác sâu rộng hơn nữa trong các lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản; đẩy nhanh xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới; tích cực hoàn thiện thủ tục mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu, lối mở đã đạt được thoả thuận; thực hiện hiệu quả 3 văn kiện pháp lý biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc và các thỏa thuận có liên quan; phối hợp giải quyết kịp thời, thoả đáng các vấn đề phát sinh trên biên giới;…Tại hội nghị, bốn tỉnh biên giới Việt Nam và Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc) thống nhất nội dung tiếp tục thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hợp tác toàn diện, ký kết Bản ghi nhớ hợp tác hữu nghị giai đoạn 2022 - 2026 với những nhận thức chung về phương diện tin cậy chính trị; hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư; giao lưu văn hóa, xã hội; hợp tác quản lý biên giới và hợp tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Trong khuôn khổ chương trình còn diễn ra Hội nghị lần thứ 13 Ủy ban công tác liên hợp; hoạt động giao lưu giữa cơ quan y tế bốn tỉnh biên giới Việt Nam và Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc).
    Ngày 25/02/2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành chủ trì Hội nghị trực tuyến với các bộ, ngành và bốn tỉnh biên giới phía Bắc: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Cao Bằng về tình hình xử lý hàng hóa ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc. Dự hội nghị tại điểm cầu Lạng Sơn có đồng chí Đoàn Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan. Theo báo cáo tại hội nghị, ngay sau Tết Nguyên đán, tình trạng ùn tắc xe chở hàng hóa xuất khẩu tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc tiếp tục tiếp diễn, tính đến 8h00 ngày 24/02/2022, tổng số xe chờ xuất khẩu tại các cửa khẩu biên giới là hơn 3.700 xe, trong đó tại Lạng Sơn hơn 1.700 xe, tại Quảng Ninh hơn 1.500 xe, tại Lào Cai 300 xe, tại Cao Bằng 80 xe. Nguyên nhân chính của tình trạng ùn tắc như hiện nay chủ yếu do Trung Quốc áp dụng các biện pháp mạnh để phòng chống dịch Covid-19; các tỉnh biên giới phía Bắc chưa thiết lập được “vùng xanh”, “luồng xanh” ở khu vực cửa khẩu biên giới với quy trình, tiêu chuẩn phòng chống dịch hài hòa với phía Trung Quốc; lượng xe chở hàng hoá lên các cửa khẩu biên giới vẫn liên tục tăng nhanh những ngày gần đây mặc dù các bộ, ngành và các tỉnh biên giới đã liên tục khuyến cáo. Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Đoàn Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn khẳng định các chủ trương, giải pháp giải quyết ùn tắc do Chính phủ ban hành thời gian qua là hoàn toàn đúng đắn, tuy nhiên một số doanh nghiệp, thương nhân chưa nghiêm túc thực hiện theo thông báo điều tiết của tỉnh. Tỉnh Lạng Sơn cũng đã có nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng ùn ứ như thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng cường phòng chống dịch, kiên trì thiết lập “vùng đệm”, “vùng xanh” an toàn, hỗ trợ doanh nghiệp xuất nhập khẩu; tăng cường trao đổi, hội đàm với phía Quảng Tây, Trung Quốc để thống nhất phương thức giao nhận hàng hóa mới, phù hợp với yêu cầu phòng chống dịch của 2 bên; trước mắt, tỉnh sẽ thực hiện phương thức giao nhận hàng hóa theo hình thức “hạn chế tiếp xúc” tại cửa khẩu Tân Thanh và cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, hình thức này được kỳ vọng sẽ tăng gấp 3 lần năng lực thông quan so với hiện nay. Kết luận hội nghị, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành nhấn mạnh, để giải quyết ùn tắc đạt hiệu quả cao hơn nữa, cần các giải pháp căn cơ, dài hơi hơn, theo hướng đổi mới, bổ sung thêm các chính sách phù hợp, trong đó giải pháp mới là xây dựng “luồng xanh”, “vùng xanh” phục vụ xuất nhập khẩu; giao Chủ tịch UBND các tỉnh có cửa khẩu khẩn trương chọn mặt bằng để triển khai nhanh mô hình này; các địa phương cần thường xuyên trao đổi, hội đàm, giữ vững quan hệ hữu nghị, hợp tác với phía Trung Quốc, có giải pháp hữu hiệu hơn, kiên quyết chuyển mạnh từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch; tiếp tục thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền. Phó Thủ tướng giao Bộ Công thương chủ trì phối hợp với các bộ, ngành thành lập tổ công tác nghiên cứu trình Chính phủ cơ chế, chính sách liên quan đến quy định điều kiện, tiêu chuẩn, chất lượng xuất khẩu tiểu ngạch và cơ chế, chính sách khuyến khích xuất khẩu chính ngạch để sớm ban hành thực hiện.
     Ngày 25/02/2022, UBND tỉnh tổ chức hội nghị trực tuyến 3 cấp triển khai nhiệm vụ, kế hoạch xây dựng nông thôn mới (NTM) năm 2022. Đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị. Dự hội nghị có đồng chí Đinh Hữu Học, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh. Theo báo cáo tại hội nghị, năm 2021 mặc dù gặp khó khăn song với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành và sự chung tay góp sức của người dân, việc triển khai xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh tiếp tục đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trên địa bàn tỉnh có thêm 10 xã được công nhận đạt chuẩn NTM, nâng tổng số xã được công nhận đạt chuẩn trên địa bàn tỉnh là 75 xã; 05 xã được công nhận đạt chuẩn NTM nâng cao; bình quân mỗi xã trên địa bàn tỉnh đạt 14,03 tiêu chí, tăng 1,06 tiêu chí so với năm 2020. Năm 2022, toàn tỉnh phấn đấu xây dựng thêm 10 xã đạt chuẩn NTM; bình quân mỗi xã trên địa bàn đạt từ 14,5 tiêu chí trở lên; phấn đấu thêm 05 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; mỗi huyện, thành phố công nhận từ 2 - 3 khu dân cư NTM kiểu mẫu và 02 vườn mẫu trở lên. Phát biểu kết luận hội nghị, đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh ghi nhận, đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng và kết quả đạt được trong xây dựng NTM năm 2021 trên địa bàn tỉnh. Về nhiệm vụ năm 2022, đồng chí yêu cầu các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố cần bám sát Kế hoạch số 23/KH-UBND, ngày 29/01/2022 của UBND tỉnh về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tỉnh Lạng Sơn năm 2022; tiếp tục tập trung công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng NTM; xây dựng, phát động phong trào thi đua “Lạng Sơn cùng cả nước xây dựng NTM giai đoạn 2022 - 2025”; tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng NTM; tập trung huy động và làm tốt công tác lồng ghép nguồn vốn; các xã đã đạt chuẩn NTM tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí. Các huyện, xã cần rút kinh nghiệm từ năm trước để đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo chất lượng các công trình hạ tầng trong xây dựng NTM năm 2022.
Tin tổng hợp
 
 
KIÊN ĐỊNH, PHÁT TRIỂN VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
THEO TINH THẦN HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XIII
 
     (TG) - Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII là một hội nghị rất quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ở hội nghị này, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đến tầm quan trọng của công tác tư tưởng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến việc kiên định, nghiên cứu phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
 
 
 
     TÍNH BIỆN CHỨNG TRONG NGUYÊN TẮC VẬN DỤNG VÀ KẾ THỪA VIỆC KIÊN ĐỊNH, PHÁT TRIỂN, VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
     Trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, hành trình bôn ba tìm đường cứu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(1). Do đó, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam. Không chỉ có vậy, Người còn phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam trong mỗi giai đoạn lịch nhất định. Bằng cách đó, Người đã đưa ra những tư tưởng chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Do đó, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của cách mạng nước ta.
     Trong thời gian qua, nhất là từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta đã luôn kiên trì, kiên định và nêu cao chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng ta nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(2). Đến Đại hội VII (6/1991), Đảng bổ sung điểm mới: “Nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”(3); đồng thời khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng của Người đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Từ đây, chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
     Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) được thông qua tại Đại hội VII đã xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”(4). Đây là bước phát triển lớn trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn của Đảng về việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam, đồng thời thể hiện rõ quan điểm nhất quán về mặt tư tưởng: chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này không chỉ bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng mà còn thể hiện rõ lập trường kiên định, ý chí quyết tâm của Đảng trong việc bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu khủng hoảng, sụp đổ những năm đầu của thập kỷ 90.
     Kế thừa tinh thần đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(5). Điều này tiếp tục được nhấn mạnh hơn ở Đại hội XII (năm 2016): “Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”(6).
     Với những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 35 đổi mới đất nước, tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là “kim chỉ nam” cho mọi hành động của Đảng. Đai hội XIII đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo quá trình đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Đó là: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(7). Đây được coi là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(8).
 
 
Đại hội XIII của Đảng xác định “Kiên định và vận dụng,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”
 
     Trên cơ sở kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội qua, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đến việc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng chỉ đạo quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó, cần phải “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(9). Có thể nhận thấy, ở Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đã nêu rõ quan điểm, thái độ với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
     Sở dĩ trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đặt ra vấn đề này vì do xuất phát từ cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan, cả tình hình quốc tế, khu vực và những diễn biến trong nước. Trên thế giới, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên, các vấn đề an ninh phi truyền thống vẫn đang tiếp diễn. Trong nước, sự nghiệp đổi mới tuy được đẩy mạnh toàn diện nhưng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn như: “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp”(10). Nghiêm trọng hơn, Đảng ta còn chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”(11). Trong bài phát biểu bế mạc tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường”, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc”(12).
     Cũng có thể nhận thấy, ở Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, tính biện chứng được thể hiện rất rõ trong quan điểm của Đảng về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu “kiên định, phát triển” là kiên trì làm theo, đi theo những quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh; làm cho những quan điểm, tư tưởng ấy ngày càng sinh động, có thêm những nội hàm mới thì “vận dụng sáng tạo” là sự chắt lọc những quan điểm của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam, tránh sự máy móc, sơ cứng. Đây chính là sự kế thừa, quán triệt những chỉ dẫn có tính phương pháp luận của V.I.Lênin trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(13).
 
 
V.I. Lê-nin vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội hiện thực trong điều kiện cụ thể của nước Nga
 
     Quan điểm của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa cho thấy sự vững vàng về lập trường tư tưởng, vừa cho thấy tính biện chứng trong nguyên tắc vận dụng và kế thừa. Thực tiễn hơn 92 năm ra đời, phát triển của Đảng và hơn 35 năm đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử khiến cho “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay”(14). Những thành tựu đó đã chứng tỏ sự kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, vừa phù hợp với xu thế khách quan đúng như Đảng ta nhận định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(15). Do đó, để quán triệt quan điểm chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đã bổ sung thêm quy định liên quan trực tiếp đến lập trường tư tưởng, thái độ của đảng viên đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Đó là đảng viên không được “phản bác, phủ nhận, xuyên tạc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(16). Đây là sự bổ sung kịp thời nhằm khắc phục triệt để những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
THỰC HIỆN QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XIII
 
 
Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã thảo luận và ban hành Kết luận số 21-KL/TW
về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn,
đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và Quy định số 37-QĐ/TW về những điều
đảng viên không được làm với nhiều điểm mới nổi bật.
 
     Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã thảo luận và ban hành Kết luận số 21-KL/TW về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”” và Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm với nhiều điểm mới nổi bật.
Để thực hiện những quan điểm chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, cần chú ý đến những giải pháp cơ bản như sau:
     Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
     Vì bối cảnh thực tiễn đã có nhiều thay đổi, đặt ra nhiều vấn đề mới cần giải quyết nên để tiếp tục kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu lớn về những vấn đề cơ bản, nền tảng nhằm tiếp tục khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, cần chắt lọc, đề xuất những vấn đề cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn nước ta giai đoạn hiện nay. Đây không phải là “xét lại” chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh như một số học giả phi mácxít đã lợi dụng sự phát triển của thực tiễn để mổ xẻ, phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác; mà là tiếp thu tinh thần biện chứng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Bản thân các ông không coi học thuyết của mình là chìa khóa vạn năng, nhất thành bất biến mà là một học thuyết mở cần được bổ sung, phát triển, cần được “thêm da thêm thịt” bằng thực tiễn sinh động đúng như Ph.Ăngghen đã từng khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(17). Do đó, kiên trì nhưng không bảo thủ, giáo điều; bổ sung, phát triển nhưng không xa rời những lý luận nền tảng, những nguyên tắc cơ bản là cách thức cần thiết để kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam giai đoạn hiện nay.                                               Thứ hai, kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
     Bên cạnh việc khẳng định, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cần tiếp tục đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Trước hết, cần hệ thống hóa các nội dung đang bị các thế lực chống phá, từ đó xây dựng luận cứ đấu tranh phản bác trên từng vấn đề cụ thể. Đồng thời, chuyển trọng tâm của việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên mặt trận tư tưởng, lý luận truyền thống là chủ yếu sang đấu tranh trên internet và mạng xã hội. Đây là một sự chuyển hướng cần thiết nhằm nắm bắt xu thế tất yếu của thời đại. Đó là sự chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt của các thế lực thù địch trên không gian mạng khiến mạng xã hội trở thành không gian tranh chấp chính trên trận tuyến đặc biệt quan trọng này. Điều này cũng được Đảng ta chỉ rõ ở Đại hội XIII như sau: “Chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội”(18). Ngoài ra, cần áp dụng những quy định của pháp luật để xử lý nghiêm minh những đối tượng có hành vi xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dưới bất kỳ hình thức nào.
     Thứ ba, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân.
     Tùy theo yêu cầu của mỗi cấp học, bậc học, cần đổi mới nội dung chương trình giảng dạy các môn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng “khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn”(19). Nội dung chương trình cần bố trí hợp lý giữa kiến thức lý luận với những vấn đề thực tiễn, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng vận dụng những kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nêu rõ: “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để xây dựng cơ sở khoa học vững chắc cho việc hoạch định, thực thu chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(20). Ngoài ra, cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại, áp dụng những phương pháp giảng dạy tích cực, đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại để kiểm tra, giám sát nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ở nước ta thời gian qua: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; khắc phục tình trạng ngài học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”(21).
      Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm, tính sáng tạo trong việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
      Để tiếp tục kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận chính trị; có ý thức khắc phục triệt để bệnh “lười” học tập lý luận chính trị. Ngoài ra, cần quán triệt quan điểm biện chứng và nguyên lý phát triển khi học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là vừa không ngừng củng cố, nâng cao kiến thức để tăng “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch song cũng vận dụng sáng tạo, không ngừng bổ sung, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể; tránh tư duy dập khuôn, máy móc, giáo điều làm xơ cứng, nghèo nàn những quan điểm, tư tưởng của các bậc tiền bối.
     Như vậy, kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên tắc quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Do đó, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động. Đây tuy là một nhiệm vụ rất quan trọng với nhiều khó khăn, thử thách nhưng với niềm tin sắt son, bằng sự quyết tâm và tinh thần đồng sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, chúng ta sẽ vẫn tiếp tục vững vàng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho Đảng ta, dân tộc ta trên chặng đường đổi mới tiếp theo./.
-----------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.2, tr.289
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, H, 1987, tr.125.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự Thật, H, 1991, tr.127.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự Thật, H, 1991, tr.21.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, H, 2011, tr.88.
(6) (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.7-8, 135-136.
(7) (8) (14) (15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t. I., tr.33, 33, 25, 104.
(9) (16) (20) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.94, 110, 94.
(10) (11) (18) (19) (21) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.164, 168, 234, 235, 236.
(13) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1974, t.4, tr.232.
(17) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1999, t.36, tr.796.
Nguồn:tuyengiao.vn
 
 
 
ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP,
QUÁN TRIỆT, TUYÊN TRUYỀN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII
 
     (TG) - Để góp phần sớm đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống trong bối cảnh, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ đan xen khó khăn, thách thức, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chất lượng nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng như nghị quyết, chỉ thị, kết luận của các hội nghị Trung ương khóa XIII cần tiếp tục được đổi mới, nâng cao.
 
 
 
      NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT
     Phát huy vai trò “đi trước, mở đường”, ngay sau Đại hội XIII của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương tích cực, chủ động tham mưu trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 01-CT/TW về nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, kịp thời tham mưu xây dựng, ban hành Kế hoạch, Hướng dẫn nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết. Đồng thời, nhận thức sâu sắc đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên, cần thực hiện một cách cẩn trọng, nghiêm túc, bài bản trong suốt cả nhiệm kỳ, nhằm biến những quyết định của Đại hội nhanh chóng trở thành hiện thực sinh động.
     Do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 trên địa bàn cả nước, Ban Tuyên giáo Trung ương đã chủ động tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị chủ trương tổ chức Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng theo hình thức trực tuyến, bảo đảm yêu cầu thiết thực, hiệu quả, thực chất. Tại hội nghị này, Ban Tuyên giáo Trung ương đã chủ động tham mưu, đề xuất mời các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư khóa XIII tham gia truyền đạt nên sức lôi cuốn, sức thuyết phục, hiệu quả quán triệt, tuyên truyền rất cao.
     Hình thức trực tuyến cũng được áp dụng rộng rãi trong các hội nghị khác của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, đơn vị từ trung ương đến địa phương trong việc triển khai nghiên cứu, học tập, cụ thể hóa, thực thi Nghị quyết Đại hội XIII như: Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị; Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026; Hội nghị trực tuyến toàn quốc với các doanh nhân, đại diện doanh nghiệp; Hội nghị trực tuyến các chính đảng Nga-ASEAN; Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và các chính đảng trên thế giới;... 
     Trong đó, đồng chí Tổng Bí thư trực tiếp chủ trì một số hội nghị, thể hiện sự đổi mới học trong nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII chuyên sâu theo các lĩnh vực, đúng theo tinh thần: “Trên dưới đồng lòng" và "Dọc ngang thông suốt"(1).
     Hình thức trực tuyến cho phép việc tổ chức hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết diễn ra cùng một thời điểm, phạm vi rộng, số lượng đại biểu tham dự lớn, tính thời sự cao, tiết kiệm thời gian, kinh phí. Việc đôn đốc, kiểm tra, nắm bắt tình hình quán triệt, triển khai học tập nghị quyết của cấp ủy cấp trên đối với cấp ủy cấp dưới thuận tiện. Báo chí được định hướng trực tiếp, kịp thời. Sau hội nghị trực tuyến, có thể gửi video bài giảng để cung cấp cho các địa phương, đơn vị tiếp tục phổ biến, tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đến nay, tuy trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hết sức phức tạp, gây nhiều khó khăn, trở ngại đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội song việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII đã được cấp ủy đảng, các cấp, các ngành chủ động, linh hoạt, kịp thời triển khai một cách hiệu quả bằng nhiều hình thức sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế.
     Theo kết quả điều tra của Viện Dư luận xã hội, cán bộ, đảng viên và Nhân dân đánh giá cao các hình thức tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
     Ban Tuyên giáo Trung ương cũng đã chỉ đạo biên soạn các tài liệu theo tinh thần đổi mới, nghiêm túc, thiết thực, hiệu quả. Ngay sau khi Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII kết thúc, Ban Tuyên giáo Trung ương đã chủ động chỉ đạo biên soạn các tài liệu nghiên cứu, học tập quán triệt nghị quyết theo hướng ngắn gọn, phù hợp với từng đối tượng: Tài liệu nghiên cứu (dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên); Tài liệu học tập (dùng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở); Tài liệu hỏi - đáp (dùng cho đoàn viên, hội viên các tổ chức chính trị - xã hội và tuyên truyền trong nhân dân).
     Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên, cần thực hiện một cách cẩn trọng, nghiêm túc, bài bản trong suốt cả nhiệm kỳ, nhằm biến những quyết định của Đại hội nhanh chóng trở thành hiện thực sinh động.
     Công tác tuyên truyền nghị quyết được tiến hành thường xuyên, sáng tạo, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Nội dung tuyên truyền tập trung nêu bật thành công của Đại hội XIII của Đảng; Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII, những nội dung cốt lõi, những vấn đề mới trong các văn kiện Đại hội; phản ánh đầy đủ, kịp thời, toàn diện, từng bước triển khai nghị quyết tới các tầng lớp nhân dân.
     Để đảm bảo tính liên tục, thông suốt, công tác tuyên truyền, phổ biến nghị quyết cần được triển khai bằng nhiều phương thức, phương tiện như: các kênh thông tin đại chúng của Trung ương và địa phương (cổng thông tin điện tử, báo chí, tạp chí…), mạng xã hội, hoạt động sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt của các tổ chức chính trị - xã hội, các hội thi tìm hiểu, thi báo cáo viên giỏi,… Trong quá trình tuyên truyền, phải kịp thời lý giải những băn khoăn, vướng mắc của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nội dung Nghị quyết; kịp thời uốn nắn những nhận thức chưa đúng; chủ động định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận tích cực trong xã hội; kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc.
     Để khắc phục tình trạng “chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu” mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra, ngay sau đợt nghiên cứu, học tập, quán triệt, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tập trung xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng theo phương châm “kế hoạch 10 phần thì biện pháp phải 20 phần và quyết tâm 30 phần”(2); tập trung lựa chọn những nội dung trọng tâm, giải pháp đột phá, những vấn đề nổi cộm, bức xúc để chỉ đạo giải quyết hiệu quả. Chương trình hành động của tập thể phải được thực hiện thông qua các kế hoạch công tác, các đề án, dự án, kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn (hằng năm). Lấy kết quả thực hiện chương trình hành động là cơ sở quan trọng để kiểm điểm, đánh giá tập thể cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị hằng năm và cả nhiệm kỳ.
     Vai trò của cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu trong công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc nghiên cứu, học tập, quán triệt và xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết được phát huy. Đó là, nghiên cứu, ban hành tiêu chí cụ thể, phù hợp để đánh giá chất lượng học tập của cán bộ, đảng viên sau mỗi đợt học tập, quán triệt; có cơ chế giám sát, quản lý học viên nghiêm túc, chặt chẽ; phân công cấp ủy phụ trách, thành lập các tổ công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết ở từng cơ quan, đơn vị trực thuộc. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai Nghị quyết để kịp thời phát hiện, khen thưởng, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích trong nghiên cứu, học tập, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ở các cấp, khắc phục triệt để bệnh hình thức, qua loa, đại khái.
      Cần tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả thực tế việc cụ thể hóa, đưa nghị quyết vào thực tiễn của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Rà soát, đôn đốc việc ban hành, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án của các cấp, các ngành để thực hiện đúng tiến độ, lộ trình đề ra. Quá trình thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề cao tính sáng tạo, đưa ra những cách làm mới, không rập khuôn, cứng nhắc, cục bộ.
     MỘT SỐ KINH NGHIỆM
     Từ việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
     Một là, luôn quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; phát huy tinh thần đoàn kết, đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo theo hướng khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể, trách nhiệm cá nhân, bản lĩnh, quyết đoán, thận trọng nhưng cũng rất khẩn trương, linh hoạt, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đơn vị; tăng cường phân công, phân cấp, uỷ quyền, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo - coi đây là thước đo năng lực lãnh đạo, chất lượng tổ chức đảng.
     Hai là, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chủ động xây dựng kế hoạch quán triệt Nghị quyết bảo đảm chặt chẽ, khoa học và cụ thể; mặt khác, do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, phải chủ động có những cách làm sáng tạo; ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin để nghiên cứu học tập như: tổ chức hội nghị, hội thi, lớp học trực tuyến, truyền hình trực tiếp, lồng ghép trong hoạt động của cấp ủy, chi bộ, sinh hoạt của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; cung cấp, hướng dẫn khai thác tài liệu trên các trang thông tin điện tử, báo chí, video bài giảng để phát huy tinh thần, ý thức tự học, tự nghiên cứu của cán bộ, đảng viên.
     Ba là, việc triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết đại hội Đảng các cấp phải gắn với nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị để khai thác được tiềm năng, lợi thế riêng, có các giải pháp đột phá, sáng tạo, sát với yêu cầu thực tiễn. Các địa phương, đơn vị cần tiếp thu những ý kiến đóng góp xác đáng của các cán bộ quản lý, nhà khoa học và các tầng lớp nhân dân để đảm bảo hiện thực hóa các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể của Nghị quyết. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho cơ sở, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật. Đối với những vấn đề phát sinh, chưa có tiền lệ, cần giải quyết ngay thì vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời điều chỉnh những bất cập, vướng mắc.
    Bốn là, phát huy dân chủ trong quá trình học tập cũng như xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, tạo sự thống nhất từ nhận thức, tư tưởng đến hành động của cán bộ, đảng viên. Quyết liệt trong lãnh đạo để cụ thể hóa Nghị quyết thành các chương trình công tác trọng tâm của địa phương, đơn vị và các kế hoạch, đề án, nghị quyết chuyên đề. Thực hiện tốt việc lấy ý kiến góp ý, phản biện của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình xây dựng Chương trình hành động, các chương trình, đề án, kế hoạch để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết. Phát huy vai trò của cấp uỷ các cấp và người đứng đầu, phân công, phân cấp các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Uỷ viên Ban Chấp hành bám sát các địa bàn, kịp thời chỉ đạo giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc tại cơ sở.
    Năm là, trong tổ chức thực hiện nghị quyết, cần chủ động nhìn nhận, phân tích, đánh giá tổng thể và quyết định chọn hướng đột phá từ những việc còn khó khăn, vướng mắc, tồn tại để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện mang lại kết quả cụ thể. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, thường xuyên, kịp thời đôn đốc việc triển khai thực hiện; biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích tốt, đồng thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm vi phạm.
     NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
     Nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết Hội nghị Trung ương khoá XIII trong thời gian tới, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp như sau:
     Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, trước hết là đồng chí bí thư cấp ủy, tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị với sự tập trung cao; cụ thể hóa việc thực hiện bằng những giải pháp phù hợp, khả thi. Nêu cao tinh thần, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu; phát huy tinh thần tự học tập, nghiên cứu Nghị quyết của cán bộ, đảng viên. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện toàn diện nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là thực hiện mục tiêu kép, vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế, vừa chủ động phòng, chống dịch bệnh.
     Thứ hai, tiếp tục duy trì hình thức tổ chức hội nghị trực tuyến kết hợp với hình thức trực tiếp, lấy trực tuyến là cơ bản để nhanh chóng truyền tải nghị quyết của Đảng kịp thời tới cán bộ, đảng viên, nhất là trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 hiện nay. Phát huy hình thức trao đổi, tương tác giữa đại biểu ở các điểm cầu với báo cáo viên ở các hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết theo hình thức trực tuyến. Nâng cấp thiết bị, đường truyền trực tuyến để đảm bảo chất lượng âm thanh, hình ảnh trong suốt thời gian học tập, giúp cán bộ đảng viên theo dõi, nghiên cứu, học tập được thuận lợi.
     Thứ ba, từng bước xây dựng tài liệu nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết các Hội nghị Trung ương khoá XIII theo hướng chuyên đề chuyên sâu, phù hợp với từng nhóm đối tượng, cấp phát tới chi bộ để cán bộ, đảng viên dễ học tập, nghiên cứu và tuyên truyền. Thí điểm xuất bản các tài liệu học tập nghị quyết của Đảng bằng hình thức sách điện tử để tiết kiệm chi phí in ấn, giúp cán bộ, đảng viên tiếp cận nhanh hơn các loại tài liệu để học tập, nghiên cứu ở mọi lúc, mọi nơi.
     Thứ tư, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, quán triệt nghị quyết theo hướng đổi mới, tích cực, hiệu quả; phát huy ưu thế ứng dụng công nghệ thông tin, Internet, mạng xã hội để tuyên truyền về Nghị quyết và kết quả thực hiện Nghị quyết, đấu tranh chống các quan điểm chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Thường xuyên chỉ đạo sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời phát hiện, cổ vũ và nhân rộng những cách làm hay, nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong quá trình thực hiện; biểu dương những tổ chức đảng, đảng viên gương mẫu thực hiện nghiêm, chấp hành tốt việc học tập; phê bình nghiêm khắc những tổ chức, cá nhân có biểu hiện lơ là, chưa nghiêm túc,...
      Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động số 08-CTr/BTGTW, ngày 07/7/2021 thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với 12 đề án trọng tâm và 37 chương trình, đề án để triển khai thực hiện.
     Thứ năm, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả thực tế việc cụ thể hóa, đưa nghị quyết vào thực tiễn của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Rà soát, đôn đốc việc ban hành, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án của các cấp, các ngành để thực hiện đúng tiến độ, lộ trình đề ra. Quá trình thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề cao tính sáng tạo, đưa ra những cách làm mới, không rập khuôn, cứng nhắc, cục bộ.
     Thứ sáu, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện nghị quyết; phát huy ưu điểm, chỉ rõ những thiếu sót, khuyết điểm cần khắc phục, bổ sung nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với tình hình thực tế. Thường xuyên phát huy vai trò giám sát, phản biện, góp ý của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình xây dựng chương trình, kế hoạch, đề án để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp. Lấy kết quả nghiên cứu, học tập, triển khai thực hiện Nghị quyết là cơ sở quan trọng để kiểm điểm, đánh giá tập thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên hằng năm và cả nhiệm kỳ./.
-----------------------
(1) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.14, tr. 485.

Nguồn:tuyengiao.vn 

Tin liên quan