Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ

TIN TỔNG HỢP THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN THÁNG 5/2022

05-05-2022 21:36

      Ngày 15/4/2022, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị trực tuyến quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tại điểm cầu Trung ương có các đồng chí: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các ban, bộ, ngành trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ các Tỉnh ủy, Thành ủy. Dự tại điểm cầu tỉnh Lạng Sơn có đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh, các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành tỉnh, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội tỉnh. Tại hội nghị, các đại biểu đã được nghe báo cáo những nội dung chủ yếu của Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đại diện các bộ, ngành và các địa phương tham luận về những nội dung trọng tâm và các giải pháp nhằm triển khai có hiệu quả Nghị quyết. Phát biểu chỉ đạo, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, để tổ chức thực hiện tốt, có kết quả thiết thực Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị gắn với việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phải quán triệt thật đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm; tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành, của người dân và cộng đồng các doanh nghiệp về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng; phải khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần chủ động, sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển vùng, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Đồng thời đồng chí cũng yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng ở trung ương và các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị của các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh.

     Ngày 21/4/2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới (NTM) và Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025. Dự hội nghị tại điểm cầu Lạng Sơn có đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; lãnh đạo Ủy ban MTTQVN tỉnh, các sở, ban, ngành, các huyện, thành phố. Theo báo cáo, sau 10 năm triển khai thực hiện, chương trình MTQG xây dựng NTM đã hoàn thành vượt 12,4% số xã đạt chuẩn NTM so với mục tiêu giai đoạn 2016-2020 đề ra, cả nước có 5.706/8.227 xã đạt chuẩn NTM, bình quân đạt 17 tiêu chí/xã.
     Về Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2021-2025: phấn đấu cả nước có ít nhất 80% số xã đạt chuẩn NTM, khoảng 40% xã đạt chuẩn NTM nâng cao, ít nhất 50% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM, thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng ít nhất 1,5 lần so với năm 2020; 60% thôn, bản, ấp thuộc các xã đặc biệt khó khăn được công nhận đạt chuẩn NTM; cả nước có từ 17-19 tỉnh, thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM;… dự kiến nguồn ngân sách bố trí cho Chương trình giai đoạn này tối thiểu là 196.332 tỷ đồng. Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đặt ra mục tiêu tỷ lệ hộ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1,0-1,5%/năm, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3,0%/năm, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4-5%/năm; 30% huyện nghèo, 30% xã đặt biệt khó khăn thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn…; Chương trình có 7 dự án và 11 tiểu dự án, dự kiến tổng kinh phí thực hiện tối thiểu là 75.000 tỷ đồng. Tại hội nghị, các địa phương đã trao đổi, thảo luận, đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện hiệu quả các chương trình MTQG, kiến nghị trung ương sớm phân bổ nguồn vốn, có hướng dẫn tiêu chí cụ thể thực hiện các chương trình MTQG… Phát biểu kết luận hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tổ chức quán triệt, tuyên truyền, tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức, doanh nghiệp, người dân và đối tượng có liên quan về các chương trình MTQG để tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong triển khai thực hiện, cùng đó quán triệt cả hệ thống chính trị, người dân tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cả nước chung sức xây dựng NTM” gắn với các phong trào thi đua khác. Các bộ, ngành liên quan xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện các chương trình MTQG làm cơ sở để các địa phương triển khai thực hiện, bố trí nguồn lực thực hiện có hiệu quả các chương trình. Các địa phương ban hành các văn bản để cụ thể hóa chủ trương, chính sách, hướng dẫn của trung ương, trong quá trình thực hiện cần quản lý và sử dụng nguồn vốn theo đúng quy định của pháp luật; triển khai các giải pháp huy động, bổ sung nguồn lực thực hiện các chương trình MTQG; đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong thực hiện các chương trình MTQG.
     Ngày 21/4/2022, Tổng cục Thuế tổ chức Lễ công bố hệ thống hóa đơn điện tử (HĐĐT) toàn quốc theo hình thức trực tiếp và trực tuyến toàn quốc. Dự buổi lễ có đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; lãnh đạo Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành trung ương. Dự hội nghị tại điểm cầu Lạng Sơn có đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Đoàn Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; đại diện lãnh đạo một số sở, ngành, lãnh đạo Cục Thuế tỉnh và các phòng chuyên môn thuộc Cục Thuế. Theo Tổng cục Thuế, từ ngày 01/7/2022 HĐĐT sẽ được triển khai trong toàn quốc, Bộ Tài chính đã ra nghị quyết về lộ trình áp dụng theo 2 giai đoạn. Giai  đoạn 1, từ tháng 11/2021 với 06 tỉnh, thành phố là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Định và Phú Thọ, các địa phương này có số lượng người nộp thuế chiếm 60% toàn quốc và tổng số hóa đơn phát hành trong một năm chiếm khoảng 70% so với toàn quốc. Giai đoạn 2 sẽ triển khai từ tháng 4/2022 với 57 địa phương còn lại. Bộ Tài chính đã phối hợp chặt chẽ với UBND các tỉnh, thành phố, đồng thời chỉ đạo Tổng cục Thuế chuẩn bị các điều kiện cần thiết để khởi động hệ thống HĐĐT. Tổng cục Thuế đã đặt ra lộ trình đến hết ngày 10/5/2022 phải hoàn thành tối thiểu 50%; đến hết ngày 31/5/2022 phải hoàn thành 90% và đến hết ngày 30/6/2022 phải hoàn thành 100% số lượng doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh chuyển sang sử dụng HĐĐT theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ. Đối với tỉnh Lạng Sơn, việc triển khai áp dụng HĐĐT đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo sát sao và đạt những kết quả tích cực, tính đến hết ngày 18/4/2022, ngành thuế đã tiếp nhận 812 tờ khai áp dụng HĐĐT của người nộp thuế trên địa bàn. Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, các bộ, ngành liên quan tiếp tục xây dựng chiến lược chuyển đổi số, đào tạo nhân lực có trình độ cao, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin; nâng cao hạ tầng công nghệ thông tin phù hợp với sự phát triển. Dữ liệu tại HĐĐT phải đảm bảo chính xác, công khai, minh bạch, tăng cường kiểm tra, giám sát để phát hiện các hành vi gian lận, gây thất thu thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân, doanh nghiệp, đơn vị hiểu được tầm quan trọng, lợi ích của hệ thống HĐĐT để tham gia đầy đủ, đạt mục tiêu đề ra.
     Ngày 26/4/2022, Hội Nông dân tỉnh và Bưu điện tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức Lễ ký kết chương trình phối hợp về hỗ trợ nông dân chuyển đổi số trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, hàng hóa năm 2022. Dự Lễ ký kết có đồng chí Hoàng Văn Ngôn, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh; đồng chí Phạm Thị Thanh Xuân, Giám đốc Bưu điện tỉnh Lạng Sơn và đại diện các phòng, ban của hai đơn vị. Theo đó, Hội Nông dân tỉnh và Bưu điện tỉnh sẽ phối hợp rà soát, đưa hộ sản xuất nông nghiệp lên sàn giao dịch thương mại điện tử Postmart.vn/Agri-postmart.vn; kết nối, tiêu thụ nông sản thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử và hệ thống điểm bán hàng của hai bên; phát triển hệ thống cộng tác viên, đại lý bán hàng; xây dựng các gói sản phẩm, dịch vụ với chính sách ưu đãi cho các cấp hội, cán bộ, hội viên nông dân, các chi, tổ hội nông dân nghề nghiệp, câu lạc bộ nông dân, các tổ hợp tác, hợp tác xã; triển khai các chương trình truyền thông về chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn lồng ghép vào các hội nghị, tập huấn hoặc sự kiện của các cấp Hội nông dân trong tỉnh và hệ thống Bưu điện tỉnh. Phát biểu tại Lễ ký kết, lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh và Bưu điện tỉnh đã nêu lên một số khó khăn trong việc tiêu thụ nông sản cho nông dân trên địa bàn trong thời gian qua; đồng thời nhấn mạnh, thời gian tới hai bên sẽ phối hợp triển khai thực hiện đồng bộ, thống nhất từ tỉnh đến cơ sở bằng các hoạt động thiết thực, cụ thể, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị, đem lại hiệu quả cao nhất cho hội viên, nông dân, góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế số, chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh.
     Ngày 27, 28/4/2022 đã diễn ra Hội thi Giảng viên lý luận chính trị giỏi cấp tỉnh  năm 2022. Tham dự có đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Phùng Quang Hội, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức hội thi; lãnh đạo Ban Dân vận Tỉnh ủy; đại diện thường trực các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy, lãnh đạo các sở, ban, ngành và 12 thí sinh là những giảng viên chuyên trách đang giảng dạy tại 10 Trung tâm chính trị các huyện ủy, thành ủy trên địa bàn tỉnh. Phát biểu khai mạc hội thi, đồng chí Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức hội thi nhấn mạnh: công tác giáo dục lý luận chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, vừa có vai trò nền tảng, vừa có vị trí then chốt trong tình hình hiện nay. Hội thi giảng viên lý luận chính trị giỏi là đợt sinh hoạt chuyên môn, nghiệp vụ bổ ích và cần thiết, là hoạt động có ý nghĩa thiết thực nhằm nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng giảng dạy của đội ngũ giảng viên chuyên trách, đây cũng là dịp để các giảng viên trao đổi, học tập, tìm ra phương pháp giảng dạy tiên tiến, các sáng kiến, kinh nghiệm trong truyền đạt lý luận chính trị để thi đua dạy tốt, học tốt. Đồng thời, thông qua hội thi, cấp ủy các cấp nhận thức đầy đủ hơn về công tác giáo dục lý luận chính trị, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng chí đề nghị các thí sinh dự thi phát huy năng lực, sở trường của bản thân, bình tĩnh, tự tin, vận dụng sáng tạo, nhuần nhuyễn kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm đã có của bản thân để thực hiện tốt phần thi của mình. Trong hai ngày, các thí sinh đã lần lượt trải qua 03 phần thi soạn giáo án bài giảng, thi giảng và trả lời câu hỏi của ban giám khảo. Tổng kết Hội thi, Ban Tổ chức đã trao 01 giải Nhất, 02 giải Nhì, 03 giải Ba, 06 giải Khuyến khích; đồng thời, lựa chọn 01 thí sinh xuất sắc nhất tham dự Hội thi Giảng viên lý luận chính trị giỏi khu vực I các tỉnh phía Bắc do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức trong thời gian tới.
     Ngày 28/4/2022, Ban Chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ bí mật nhà nước (BVBMNN) tỉnh tổ chức hội nghị tập huấn Luật BVBMNN. Đồng chí Dương Xuân Huyên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì hội nghị. Tham dự tập huấn có hơn 400 đại biểu là lãnh đạo, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác BVBMNN, văn thư tại các ban đảng, sở, ngành, đoàn thể của tỉnh; cơ quan trung ương tại địa phương; huyện ủy, thành ủy, HĐND, UBND các huyện, thành phố; các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và một số đơn vị là đầu mối chấm điểm cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường an toàn về an ninh trật tự cấp tỉnh. Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Dương Xuân Huyên, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh nhấn mạnh: Luật BVBMNN, Luật An ninh mạng là những văn bản quan trọng, tạo hành lang pháp lý và là cơ sở để công tác BVBMNN từng bước đi vào nền nếp, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, nhất là trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Đồng chí đề nghị sau hội nghị, lãnh đạo các cấp, ngành cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến để cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động nắm chắc và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về  BVBMNN; nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của công tác BVBMNN. Cùng với đó, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, củng cố, kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng các tiêu chuẩn về chính trị, trình độ, năng lực, đặc biệt là những người làm công tác BVBMNN và làm việc tại các bộ phận thiết yếu, quan trọng; thường xuyên đôn đốc, hướng dẫn việc thực hiện các quy định của pháp luật về BVBMNN ở đơn vị, địa phương mình; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh các vụ lộ, mất BMNN theo quy định của pháp luật. Đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh lưu ý Ban Chỉ đạo thực hiện công tác BVBMNN cấp tỉnh và cấp huyện phải nâng cao vai trò, trách nhiệm, chủ động nghiên cứu, đề xuất những biện pháp, cách thức nâng cao hiệu quả công tác BVNMNN; tăng cường kiểm tra định kỳ và đột xuất, kịp thời phát hiện và tháo gỡ, khắc phục những hạn chế, thiếu sót của các cơ quan, đơn vị, không để xảy ra sai phạm. Trong chương trình, các đại biểu đã được Thiếu tướng Phạm Văn Vinh, Phó Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ, Bộ Công an phổ biến, quán triệt một số nội dung cơ bản của Luật BVBMNN và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó tập trung nêu phạm vi, phân loại, ban hành danh mục BMNN; trách nhiệm BVBMNN của cơ quan, tổ chức, người đứng đầu; hoạt động BVBMNN như: xác định BMNN và độ mật của BMNN, thời hạn và gia hạn thời hạn BVBMNN, điều chỉnh độ mật, giải mật, tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN;…
     Ngày 29/4/2022, Liên đoàn Lao động tỉnh (LĐLĐ) tổ chức Lễ phát động Tháng Công nhân và Tháng hành động về an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) năm 2022. Dự lễ phát động có đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Đoàn Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; đại diện lãnh đạo một số sở, ban, ngành và đông đảo cán bộ, công nhân, viên chức, lao động (CBCNVCLĐ), đoàn viên công đoàn trên địa bàn tỉnh. Tại lễ phát động, lãnh đạo LĐLĐ tỉnh đã phát động Tháng Công nhân năm 2022 với chủ đề “Công nhân Việt Nam: Tiên phong, sáng tạo, trách nhiệm, an toàn, thích ứng”, trong đó chỉ đạo các cấp công đoàn đẩy mạnh triển khai các hoạt động theo phương châm hướng về cơ sở, vì quyền lợi của người lao động, khơi dậy truyền thống đoàn kết, sáng tạo, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phục hồi và phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới. Cùng đó, LĐLĐ tỉnh phát động hưởng ứng Tháng hành động về ATVSLĐ với chủ đề “Tăng cường các biện pháp giảm thiểu rủi ro về ATVSLĐ, cải thiện điều kiện lao động tại nơi làm việc, thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch    covid-19”. Phát biểu chỉ đạo, đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã biểu dương những thành tích, đóng góp quan trọng của đội ngũ CNVCLĐ, tổ chức công đoàn tỉnh vào sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; đồng thời đề nghị các cấp công đoàn tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, động viên đoàn viên, CNVCLĐ phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nhiệt tình tham gia, hưởng ứng Chương trình “Một triệu sáng kiến nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch covid -19”; tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước; các cấp, ngành tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, phát huy vai trò chức năng trong chăm lo đời sống, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho CNLĐ,... và CNLĐ tích cực hưởng ứng, tham gia có hiệu quả các hoạt động Tháng Công nhân, Tháng hành động về ATVSLĐ, không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học tiên tiến trong lao động, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tại lễ phát động, 20 CNLĐ được nhận bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh, 54 CNLĐ được nhận bằng khen của LĐLĐ tỉnh vì có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất kinh doanh năm 2021; 13 tập thể và 18 cá nhân được LĐLĐ tỉnh tặng bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; LĐLĐ tỉnh trao kinh phí hỗ trợ xây dựng nhà “Mái ấm công đoàn” từ Quỹ Xã hội LĐLĐ tỉnh cho 10 CNVCLĐ khó khăn về nhà ở với số tiền 340 triệu đồng.
      Từ ngày 29/4 đến ngày 03/5/2022, đã diễn ra Lễ hội Kỳ Hoa - Lạng Sơn năm 2022 tại dự án Khách sạn sân Golf Hoàng Đồng, thôn Hoàng Trung, xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn. Trong khuôn khổ sự kiện, câu chuyện Kỳ Hoa của lễ hội được kể với hành trình trải nghiệm của du khách qua "Ngũ sắc Kỳ Hoa" - đại diện cho 5 đặc trưng của văn hóa bản địa và sự hoa lệ của mảnh đất Xứ Lạng, bao gồm: Sắc bản địa, Sắc thiên nhiên, Sắc âm thanh, Sắc gắn kết, Sắc tương lai. Lễ hội Kỳ Hoa được tổ chức nhằm xây dựng một lễ hội kỳ thú, rực rỡ mang đậm bản sắc văn hóa địa phương, góp phần quảng bá văn hóa, du lịch Lạng Sơn, phục vụ nhu cầu tham quan, thưởng ngoạn, vui chơi, giải trí cho người dân địa phương, cũng như du khách trong dịp nghỉ lễ.
Tin tổng hợp
 
 
 
QUYẾT TÂM LÀM TRONG SẠCH ĐẢNG 
QUA VIỆC XỬ LÝ, KỶ LUẬT ĐẢNG VIÊN
       
        Từ đầu nhiệm kỳ tới nay, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương đã tổ chức 14 kỳ họp với những kết luận xử lý và kiến nghị xử lý kỷ luật xác đáng, nghiêm minh; nhiều vụ việc nghiêm trọng, nóng, mới, thu hút sự chú ý của dư luận được phát hiện và xử lý kịp thời… Đây là những kết quả nổi bật trong công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian gần đây.
 
 
Kỳ họp thứ 12 Ủy ban Kiểm tra Trung ương 
 
     TĂNG THẨM QUYỀN CỦA ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP
     Theo đồng chí Trần Văn Rón, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm thường trực UBKT Trung ương, ngay sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, UBKT Trung ương đã tham mưu, giúp Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng bảo đảm khoa học, đồng bộ, khả thi, trong đó tập trung vào việc hoàn thiện các nguyên tắc, phương pháp, quy trình về công tác kiểm tra, giám sát. Nội dung các quy định vừa có tác dụng giáo dục, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện và xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp triển khai nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thống nhất từ trung ương đến cơ sở.
     UBKT Trung ương đã kịp thời tham mưu Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy chế làm việc của UBKT Trung ương khóa XIII; Quy định số 22-QĐ/TW về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng thay thế Quy định số 30-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII hướng dẫn thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; Quy định số 37-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; Hướng dẫn   số 02-HD/TW của Ban Bí thư hướng dẫn thực hiện một số nội dung Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
     UBKT Trung ương ban hành Hướng dẫn số 02-HD/UBKTTW về thực hiện Quy định những điều đảng viên không được làm; Báo cáo Bộ Chính trị việc tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận số 72-KL/TW ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị (khóa X) về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020;…
     Đặc biệt, ngày 18/4 vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 34-KL/TW về Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030. Kết luận này chính là sự kế thừa Kết luận số 72-KL/TW ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị (khóa X) về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020 và sự phát triển có tính cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong đó có nhiều cơ sở để UBKT các cấp thực hiện nhiệm vụ được thuận lợi hơn, rõ ràng hơn và tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy trong công tác kiểm tra, giám sát.
      Bên cạnh đó, UBKT Trung ương chủ động tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương hoàn thiện cơ chế, phương pháp, quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng. Tham mưu trình Bộ Chính trị ban hành quy trình giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. UBKT Trung ương tiếp tục rà soát, đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy định, quy trình, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng cho phù hợp với thực tiễn, nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ trong tổ chức thực hiện.
      UBKT Trung ương đang tiến hành sửa đổi, bổ sung để ban hành bộ quy trình nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho cấp ủy và bộ quy trình kiểm tra, giám sát cho UBKT các cấp để áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Việc ban hành quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng theo hướng ngày càng ngắn gọn, dễ hiểu, dễ vận dụng, qua đó, giúp cho cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT từng bước đổi mới phương pháp công tác, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ kiểm tra, giám sát và tiết kiệm thời gian, công sức và kinh phí. Phương pháp kiểm tra, giám sát được cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp đổi mới, hoàn thiện, tăng cường hơn và được tổ chức, phối hợp chặt chẽ. Bên cạnh việc sử dụng linh hoạt các phương pháp cơ bản trong công tác kiểm tra, giám sát, cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp chú trọng công tác nắm tình hình trước khi quyết định kiểm tra, đổi mới phương pháp “thẩm tra, xác minh”...
       UBKT các cấp được tăng thẩm quyền, được kiện toàn về tổ chức và cán bộ; cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, hợp tác quốc tế về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, phòng, chống tham nhũng có sự đổi mới và tiến bộ. Việc phối hợp giữa UBKT với các tổ chức đảng và cơ quan, cá nhân liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chuyển biến tích cực, thường xuyên, chặt chẽ hơn.
 
 
Đồng chí Trần Văn Rón, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương
       
      TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHỐI HỢP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
      Từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, UBKT Trung ương đã kiến nghị, tham mưu Ban Bí thư ban hành kịp thời Quy chế phối hợp với các tổ chức có liên quan, đồng thời tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm đối với các quy chế phối hợp trước đây (năm 2021, Ban Bí thư ban hành Quy chế phối hợp giữa Ban Cán sự đảng Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước với UBKT Trung ương trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng). Qua đó đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các cuộc kiểm tra, giám sát, nhất là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều đối tượng, những việc liên quan đến tham nhũng, tiêu cực.
      UBKT Trung ương cũng chủ động tham mưu và kiến nghị việc thực hiện cơ chế chỉ đạo phối hợp trong xử lý sai phạm đối với đảng viên đó là phối hợp giữa UBKT với cơ quan điều tra, thanh tra, kiểm toán, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân để thực hiện trong việc xử lý đảng viên vi phạm pháp luật trong các vụ án, vụ việc, không chờ có kết luận thanh tra, kiểm toán, điều tra; chuyển hồ sơ vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cho cơ quan điều tra để khởi tố, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật, không chờ kết thúc quá trình kiểm tra, giám sát; đồng thời xem xét, xử lý nghiêm minh cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Căn cứ các quy chế của Trung ương và cấp ủy cấp trên, ban thường vụ các cấp đã chỉ đạo xây dựng và ban hành các quy chế phối hợp giữa UBKT cùng cấp với các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
      Với sự chủ động của UBKT Trung ương trong việc nghiên cứu, tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư kịp thời ban hành các văn bản về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã giúp công tác kiểm tra, giám sát của Đảng từng bước được đổi mới, có trọng tâm, trọng điểm, đi vào những khâu, mắt xích trọng yếu; xử lý một việc mà được nhiều việc, một người mà cảnh báo, răn đe, giáo dục được nhiều người. Đồng thời công tác kiểm tra, giám sát của Đảng thực hiện theo hướng làm rõ sai phạm đến đâu, kết luận, xử lý đến đó, không có “vùng cấm”, không “có ngoại lệ”; công tác kiểm tra đã góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đất nước.
        14 KỲ HỌP VÀ NHỮNG KẾT LUẬN XÁC ĐÁNG, NGHIÊM MINH VÀ NHÂN VĂN
       Trong tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến rất phức tạp, UBKT Trung ương đã tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao với một khối lượng công việc rất lớn. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên được tập trung thực hiện với tinh thần quyết liệt, khẩn trương, kịp thời; nhiều vụ việc vi phạm nghiêm trọng, phức tạp được kiểm tra, kết luận trong thời gian rất ngắn, đạt và vượt kế hoạch đề ra.
       Việc thi hành kỷ luật cơ bản bảo đảm chặt chẽ, đúng quy trình, quy định, dân chủ, khách quan. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương chỉ đạo cấp ủy và Uỷ ban Kiểm tra cấp ủy trực thuộc Trung ương kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với một số tổ chức đảng và đảng viên. Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Uỷ ban Kiểm tra các cấp đã tập trung kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm; qua kiểm tra, giám sát kết luận rõ ràng, khách quan, chính xác, xử lý nghiêm minh nhiều tổ chức đảng, đảng viên vi phạm; giúp tổ chức đảng, đảng viên được kiểm tra, giám sát nhận thức rõ vi phạm, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục; kịp thời kiến nghị các cơ quan có liên quan thu hồi, hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung các nghị quyết, quyết định, quy định, văn bản không đúng quy định; góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, chứng minh sự quyết tâm của Đảng trong cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
       Từ đầu nhiệm kỳ tới nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã họp 14 kỳ với nhiều nội dung được kết luận xử lý kỷ luật hoặc kiến nghị xử lý kỷ luật rất nghiêm minh, công tâm, khách quan và cũng hết sức nhân văn.
       Trong năm 2021, UBKT Trung ương đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 20 tổ chức đảng (tăng 122% so với năm đầu nhiệm kỳ XII) và 08 đảng viên. Qua kiểm tra đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật 06 tổ chức đảng và 20 đảng viên; yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới thi hành kỷ luật 01 tổ chức đảng; thi hành kỷ luật theo thẩm quyền đối với 13 tổ chức đảng và 63 đảng viên.
       Chỉ tính riêng trong quý I/2022, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã chủ động thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao, tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm rất kịp thời, nghiêm túc, với quyết tâm cao. Qua đó 26 tổ chức đảng với 1.017 đảng viên bị thi hành kỷ luật. Đáng chú ý, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kỷ luật 05 tổ chức đảng và 21 đảng viên, trong đó có 14 đồng chí thuộc diện Trung ương quản lý.
       Nội dung kiểm tra tiếp tục đi vào những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội như: Quy chế làm việc; công tác cán bộ; quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư, xây dựng dự án; quản lý vốn, tài sản nhà nước; mua sắm trang thiết bị y tế; công tác xét xử; chống buôn lậu và gian lận thương mại; thực hiện trách nhiệm nêu gương; thị trường chứng khoán…
 
Hình ảnh tại Hội nghị toàn quốc giao ban công tác kiểm tra, giám sát quý I, diễn ra ngày 25/4/2022
       
      Trong 14 Kỳ họp của UBKT Trung ương, nhiều tướng lĩnh trong ngành công an, quân đội đã bị kỷ luật với những vi phạm nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của cá nhân, tổ chức, gây mất niềm tin trong Nhân dân. Một số lĩnh vực mới như: chứng khoán, bất động sản, chơi bạc công nghệ… đã bị kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, đồng thời đưa ra những mức xử lý thích đáng. Một số đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng vi phạm tới mức phải xử lý kỷ luật cũng đã được nêu rõ trong các kết luận của UBKT Trưng ương. Một số Ban Thường vụ đã bị kỷ luật bởi liên quan tới trách nhiệm để xảy ra vi phạm tại cơ quan, đơn vị mình
       Đổi mới trong công tác thi hành kỷ luật được thể hiện tại Kỳ họp thứ 14 vừa qua khi có quyết định thay đổi hình thức kỷ luật khiển trách bằng hình thức cảnh cáo đối với các cá nhân tuy có vi phạm, khuyết điểm đến mức phải xem xét thi hành kỷ luật, song các đồng chí đã thẳng thắn đấu tranh với những việc làm sai trái; chủ động, kịp thời báo cáo với các cơ quan chức năng; trong quá trình kiểm tra, kiểm điểm đã cầu thị, nghiêm túc, nhận vi phạm, khuyết điểm, tự nhận hình thức kỷ luật. UBKT Trung ương quyết định không thi hành kỷ luật các đồng chí Quách Cường và Hồ Mỹ Hòa, Liên hiệp Hợp tác xã thương mại thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co.op)…
 
       GÓP PHẦN ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ, TIÊU CỰC
       Từ các kết luận của UBKT Trung ương, cùng với sự phối hợp của các cơ quan chức năng, nhất là Quân đội, Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Ban Nội chính đã góp phần đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Từ đầu năm 2022 đến nay, các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra 1.264 vụ/2.038 bị can, truy tố 742 vụ/1.594 bị can, xét xử sơ thẩm 737 vụ/1.567 bị cáo về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (trong đó khởi tố mới 125 vụ án, 259 bị can về tội tham nhũng). Riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, đã khởi tố mới 04 vụ án/23 bị can, khởi tố mới 07 bị can trong 03 vụ án, khởi tố bổ sung tội danh 04 bị can trong 02 vụ án; kết thúc điều tra, điều tra bổ sung 05 vụ án/134 bị can; truy tố 03 vụ án/34 bị can; xét xử sơ thẩm 02 vụ án/14 bị cáo, xét xử phúc thẩm 01 vụ án/04 bị cáo.
       Nhiều vụ việc mới, nóng, phức tạp được xử lý nghiêm minh. Từ đầu năm 2022 đến nay, các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp như: Vụ án “Tham ô tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Học viện Quân y, Bộ Quốc phòng. Vụ án “Tham ô tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam. Vụ án “Đưa hối lộ; nhận hối lộ” xảy ra tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số cơ quan có liên quan. Vụ án “Thao túng thị trường chứng khoán” xảy ra tại Công ty cổ phần tập đoàn FLC. Vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ khách sạn Tân Hoàng Minh. Đã khởi tố 08 cán bộ diện Trung ương quản lý (01 thứ trưởng, 01 nguyên thứ trưởng, 01 nguyên Chủ tịch UBND tỉnh, 05 sỹ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang)…
        Sau hơn một năm kể từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, UBKT Trung ương nói riêng, ngành Kiểm tra Đảng nói chung đã thực hiện hoàn thành nhiều nội dung công việc được giao, hiện thực hóa quyết tâm của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương trong việc quyết tâm làm trong sạch Đảng, thể hiện tính nghiêm minh trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thi hành kỷ luật Đảng, đem lại niềm tin trong Đảng và trong Nhân dân./.
Nguồn: dangcongsan.vn
 

ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI TÌNH TRẠNG
SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG,
NHỮNG BIỂU HIỆN "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" TRONG NỘI BỘ
 
                             
     Hội nghị Trung ương 4, khoá XIII đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, đã và đang tạo được những chuyển biến tích cực trong toàn Đảng và hệ thống chính trị, tạo niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng thực hiện công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
     Quá trình nhận thức, nhận diện những biểu hiện suy thoái, tự phê bình và phê bình đã góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái, biểu hiện suy thoái nhằm cảnh tỉnh, răn đe, cảnh báo, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, nhất là từng bước đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, dù người đó là ai, được nhân dân đồng tình ủng hộ mạnh mẽ. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” đã đạt được một số kết quả bước đầu; tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch, phản động, của những người cơ hội chính trị. Có thể khẳng định rằng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn từng bước đẩy lùi suy thoái đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý chí, bản lĩnh, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng, đồng tình, ủng hộ. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang ra sức phấn đấu thực hiện khát vọng phát triển, đổi mới sáng tạo, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
     Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, nhận thức và thực tiễn trong công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, vẫn còn những hạn chế, bất cập, đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu một cách khoa học và có phương pháp giải quyết phù hợp với thực tiễn, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
     1. Nhận thức lý luận về đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ
     Thứ nhất, việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thời gian tới có phạm vi rộng hơn, toàn diện hơn, không chỉ trong nội bộ Đảng mà còn mở rộng ra cả hệ thống chính trị. Phạm vi, đối tượng thực hiện không chỉ đối với cán bộ, đảng viên trong Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc mà cả những đoàn viên, hội viên trong các tổ chức chính trị - xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế của đất nước trong tình hình mới
     Thứ hai, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà còn cả lĩnh vực tổ chức và cán bộ. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ; coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc; vừa đào tạo, bồi dưỡng trong trường lớp vừa rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, nhất là ở những địa bàn, lĩnh vực khó khăn, gian khổ; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa số lượng, chất lượng và cơ cấu, giữa tính phổ biến và tính đặc thù phù hợp với từng chức danh, nhiệm vụ của cán bộ được giao. Chú trọng việc tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong cuộc sống và công tác.
     Thứ ba, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng. Coi trọng việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, chức vụ càng cao, càng phải nêu gương. Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên cộng sản.
     Thứ tư, mỗi cán bộ đảng viên, đoàn viên, hội viên cần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhận thức đầy đủ, sâu sắc bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - dân chủ thực chất, dân chủ được thể hiện trong thực tế để xây dựng môi trường dân chủ trong Đảng và trong xã hội, thực hành và phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương xã hội.
     Thứ năm, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động phòng, chống "diễn biến hòa bình", những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, những thông tin xấu, độc, xuyên tạc trên Internet, mạng xã hội. Phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo nên hiệu quả thiết thực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
     2. Một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ
     Thứ nhất, việc nhận thức, nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, nhất là 09 biểu hiện sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cá nhân đảng viên vẫn còn lúng túng, chưa thật rõ, chưa sát thực tiễn, còn rập khuôn, thiếu tính khả thi, nhất là trong việc xác định, lựa chọn các vấn đề trọng tâm, nổi cộm để giải quyết trong từng trường hợp, đối tượng cụ thể. Chưa xây dựng được hệ giá trị chuẩn mực đạo đức theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam và trong điều kiện mới hội nhập quốc tế, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự tu dưỡng, rèn luyện và ứng xử trong công tác và cuộc sống. Công tác giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức công vụ chưa được chú trọng trong các cơ sở, đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.
     Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thường xuyên, thiếu kiên quyết, quyết liệt; việc giám sát, kiểm tra, nhận diện, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ còn hạn chế, nhất là việc đánh giá kết quả, xác định trách nhiệm cá nhân thực hiện cam kết, kế hoạch hành động của từng cá nhân đảng viên trong khắc phục khuyết điểm của hậu kiểm điểm còn thiếu cụ thể, kéo dài, chung chung, thiếu tính thuyết phục; vẫn còn tình trạng coi vấn đề diễn biến tư tưởng xẩy ra ở đâu đó, chứ không phải trong cơ quan, đơn vị mình, địa phương mình, đồng chí mình vẫn còn nhiều chưa có biện pháp khắc phục.
     Thứ ba, chất lượng sinh hoạt chi bộ còn rất hạn chế, nội dung sinh hoạt đảng nhiều nơi còn hình thức, chất lượng thấp; việc đưa nội dung học tập, quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, Chỉ thị số 05, Quy định nêu gương, Quy định về tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống vào sinh hoạt chi bộ hàng tháng có nhiều nơi vẫn còn hình thức, hiệu quả thấp. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; việc đấu tranh, phê phán, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là trên môi trường mạng internet, mạng xã hội còn nhiều khó khăn, bất cập, thiếu đồng bộ trong phối hợp lực lượng, thiếu công cụ sắc bén, kỹ thuật công nghệ hiện đại, thông minh để ngăn chặn, xoá bỏ các thông tin xấu độc làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
     Thứ tư, một số cán bộ, đảng viên nhận thức và thực hành công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình với bản thân mình, đồng chí, đồng nghiệp thiếu sâu sắc, còn biểu hiện né tránh, nể nang, dĩ hoà vi quý, ngại va chạm, nhất là việc nêu gương của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu ở các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị chưa nghiêm, thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm trong công việc của mình được giao, còn hiện tượng vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống phải kỷ luật; hiện tượng đảng viên bỏ sinh hoạt, xin ra khỏi đảng có dấu hiệu gia tăng(như đảng viên sau khi xuất ngũ về địa phương, đảng viên về hưu, đảng viên đi làm ăn xa gia đình, xa nơi cư trú…)
     Thứ năm, vấn đề sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị ở một số bộ, ngành, địa phương thiếu đồng bộ, bất cập, hiện tượng nhập vào rồi lại tách ra đang diễn ra, gây tâm lý xấu, bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Việc bố trí một số cán bộ chủ chốt ở một số ban, bộ, ngành, địa phương còn lúng túng, khó khăn; vẫn còn tình trạng bổ nhiệm sai, có trường hợp vừa mới được bầu vào cấp uỷ các cấp, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp của nhiệm kỳ mới…, đã bị xử lý kỷ luật đều liên quan đến những biểu hiện của sự suy thoái, tham nhũng, tiêu cực. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan đơn vị chưa rõ ràng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có nơi còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng trên một số lĩnh vực liên quan đến đất đai, bất động sản, tài chính, đầu tư công, xây dựng cơ bản, y tế, giáo dục… biểu hiện của “lợi ích nhóm”, “tham nhũng chính sách” tập trung vào số đảng viên có chức vụ, quyền hành trong bộ máy nhà nước cấu kết với các thế lực làm ăn bất chính, rửa tiền… gây bức xúc trong nhân dân.
     Những vấn đề nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
     Nguyên nhân khách quan: Từ mặt trái của kinh tế thị trường, trong điều kiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xuất hiện những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin, mạng internet, mạng xã hội, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhiều vấn đề mới, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn chưa được lý giải một cách có cơ sở khoa học, khách quan và chưa được xử lý kịp thời, hiệu quả. Hơn nữa các thế lực thù địch, phản động thường xuyên đẩy mạnh thực hiện chiến lược công kích trên mặt trận tư tưởng, lợi dụng triệt để vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc, tôn giáo” và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình, tạo nên“ điểm nóng”, phức tạp; đồng thời, chúng còn ra sức cấu kết với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá Đảng, Nhà nước và cuộc sống của nhân dân ta ngày càng tinh vi, xảo quyệt với nhiều thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa nhân dân với Đảng.
     Nguyên nhân chủ quan: Tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn diễn biến hết sức phức tạp, trước hết là do bản thân cán bộ, đảng viên đó không tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, giao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, có lối sống buông thả, thoái hoá, coi thường kỷ luật, kỷ cương. Chưa thật sự đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và hậu quả gây ra. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi hình thức, đơn điệu, thiếu tính chiến đấu. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao, chưa kiên trì, kiên quyết trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cao cấp thiếu tiên phong, gương mẫu, nêu gương trước cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng không theo kịp tình hình thực tế, nhiều vấn đề mới, khó chưa được nghiên cứu làm sáng tỏ. Chưa chú trọng xây dựng, tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng những mô hình, điển hình tiên tiến, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người dám đấu tranh phê bình; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Chưa xây dựng được cơ chế “dựa vào dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.
     3. Đề xuất quan điểm, nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp đột phá để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển hoá” trong nội bộ thời gian tới
     3.1. Bối cảnh tình hình
     Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó lường. Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt ngay gắt hơn; các mối đe dọa độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước, nhất là trên Biển Đông. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh - đại dịch COVID-19 còn kéo dài, vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp gây khó khăn, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế- xã hội và đời sống của nhân dân; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; sự chống, phá quyết liệt của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động, những người có quan điểm tiêu cực, chống đối, xuyên tạc lịch sử, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, danh dự của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc nhằm làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
     Tình hình trên đây đã và đang tác động mạnh, nhiều chiều đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cần được quan tâm thường xuyên, liên tục, không ngừng, không nghỉ để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
     3.2. Về quan điểm
     Một là, kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là vấn đề cơ bản, cốt lõi trong xây dựng và phát triển đất nước, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
     Hai là, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện một cách quyết liệt, đồng bộ, thường xuyên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và hệ thống chính trị.
     Ba là, phải kết hợp tốt giữa “xây” và “chống”, trong đó "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài và có ý nghĩa quyết định; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Chủ động, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.
     Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, vai trò nêu gương của cán bộ, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính tri, Ban Bí thư, cấp uỷ và Ban Thường vụ cấp uỷ các cấp. Thực hành dân chủ và phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; kỷ cương, kỷ luật của Đảng; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong toàn bộ hệ thống chính trị.
     Năm là, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cần phải được thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các công cụ và biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kiểm tra, giám sát, pháp luật và công nghệ.
     3.3. Về nhiệm vụ trọng tâm
     Một là, tiếp tục quán triệt nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên vềtính tự giác trong nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn chặt với việc đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.
     Thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp; cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Nâng cao tính thuyết phục trong giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân, luôn vững vàng trước khó khăn, thử thách và không bị cám dỗ bởi tiền tài, danh vọng để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, tiết kiệm, đặt lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết.
     Khơi dậy ý thức tự giác trong nêu gương; tự giác trong nhận diện những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thực sự cầu thị trong tự phê bình, “tự soi, tự sửa”; thắng thắn, chân thành trong phê bình đồng chí, đồng nghiệp, cấp trên với tinh thần xây dựng, trên tinh thần đồng chí; tự giác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mỗi ngày; tự giám sát, kiểm tra, tự nhận trách nhiệm, khuyết điểm và hình thức kỷ luật để tích cực khắc phục, sửa chữa.
     Chú trọng nghiên cứu hệ quan điểm lý luận sắc bén để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị.
     Đổi mới phương pháp, quy định rõ trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến pháp luật cho cán bộ, đảng viên; thông tin kịp thời, làm tốt công tác định hướng dư luận. Tập trung đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp.
     Hai lànâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình công tác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình đối với tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên gắn với việc nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
     Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt tư tưởng, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong công tác, nhiệm vụ được giao. Trong công tác kiểm điểm, thực hiện theo trình tự cấp trên kiểm điểm trước để làm gương cho cấp dưới; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau. Sau kiểm điểm, kết quả kiểm điểm phải được thông báo đến những tập thể đã góp ý kiến trước khi kiểm điểm. Cấp dưới báo cáo kết quả kiểm điểm với cấp trên. Những nơi kiểm điểm không đạt yêu cầu, cấp uỷ cấp trên chỉ đạo kiểm điểm lại.
     Thực hiện tự phê bình và phê bình cần khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, dị hoà vi quý; “nói không đi đôi với làm”, “nói nhiều, làm ít”, làm hình thức, đối phó; một số cán bộ, đảng viên, nhất là một bộ phận cán bộ đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp còn thiếu gương mẫu, chưa tự giác nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình được giao phụ trách.
     Tăng cường công tác xây dựng, củng cố, đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên hàng năm phải được tiến hành thường xuyên, liên tục đảm bảo theo tiêu chí và quy định của Điều lệ Đảng. Phải gắn trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu với kết quả triển khai thực hiện xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
     Ba là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ
     Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đổi mới trong công tác nhận xét, đánh giá cán bộ bằng “sản phẩm”, coi kết quả đánh giá cán bộ là tiêu chí quan trọng nhất để thực hiện quy hoạch, điều động, bổ nhiệm cán bộ. Đề bạt, sử dụng người có đức, có tài, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm; kiên quyết không bổ nhiệm và kịp thời điều chuyển, thay thế những cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, lối sống, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là người đứng đầu.
     Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi cán bộ phù hợp thực tiễn phát triển của đất nước. Thực hiện hiệu quả chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, sử dụng chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực, chú ý quan tâm bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện mô hình một số chức danh lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã không phải là người địa phương.
     Tiếp tục đổi mới, kiện toàn và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Nghiên cứu sửa đổi quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức trong toàn bộ hệ thống chính trị.
     Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng chính phủ, chính quyền điện tử gắn với hoạt động của Trung tâm phục vụ hành chính công của các bộ ngành, địa phương một cách có hệ thống và đồng bộ, kết nối với hệ thống dữ liệu quốc gia. Giảm tối đa thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính. Tăng cường phân cấp, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị để phục vụ nhân dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn.
     Bốn là, phá t huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân, thật sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; phòng, chống, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống trong Đảng là vấn đề có tính nguyên lý cần được quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc trong toàn Đảng và hệ thống chính trị.
     Chú trọng việc thể chế hoá và thực hiện nghiêm trách nhiệm của Đảng, tổ chức đảng, đảng viên được quy định trong Hiến pháp 2013 và được xác định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Sớm thể chế hoá nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng”
     Xây dựng cơ chế dựa vào dân để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh: Cơ chế để nhân dân tiến cử những người có đủ đức, tài vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Có hình thức thích hợp, lấy ý kiến góp ý của nhân dân trước khi bổ nhệm cán bộ.Phát huy vai trò của nhân dân trong việc giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là những người có chức vụ, quyền hạn, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt các cấp. Tiếp tục thực hiện tốt hơn công tác tiếp công dân, tiếp nhận xử lý thông tin và các khiếu nại, tố cáo của cán bộ đảng viên và nhân dân liên quan đến công tác cán bộ; đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chống cửa quyền, hách dịch, thiếu trách nhiệm với nhân dân.
     Thực hiện có hiệu quả hơn Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Xây dựng chế độ công tác, quy trình ban hành quyết định của Đảng, Nhà nước, trong đó quy định rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp. Mặt trận Tổ quốc các cấp có nhiệm vụ chủ trì phản biện công khai đối với các quyết sách liên quan đến lợi ích thiết thực, chính đáng của nhân dân. Phải có cơ chế tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia ngay từ đầu quá trình xây dựng chính sách, giám sát quá trình thực hiện chính sách, xây dựng và giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ được giao trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách cho nhân dân. Tăng cường giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong công tác và cuộc sống.
     Tiếp tục đổi mới và thực hiện nghiêm quy định người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp tiếp dân, đối thoại, tự phê bình và phê bình, kiểm điểm thực hiện chức trách trước nhân dân. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ, tôn vinh người phát hiện, tố giác và tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
     3.4. Giải pháp đột phá
     Một là, tiếp tục đổi mới nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên trong toàn Đảng và hệ thống chính trị để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
     Tăng cường công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện Nghị quyết, tạo sự đoàn kết, đồng thuận, ủng hộ, đề cao cảnh giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân; lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp các lực lượng, chủ động trên mọi phương diện tấn công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, kẻ xấu, cơ hội chính trị chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thành quả cách mạng của nhân dân ta.
     Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tinh thần trách nhiệm, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược. Cần xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ; phát hiện và nhân rộng những tấm gương điển hình, tiên tiến. Thực hiện việc giao duyệt các chỉ tiêu về bồi dưỡng quần chúng ưu tú, tạo nguồn phát triển đảng viên. Giao chỉ tiêu kết nạp đảng viên mới, coi đây là chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Tập trung lãnh đạo phát triển tổ chức đảng, đoàn thể ở các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có công nghệ cao, trong đó quan tâm phát triển đảng viên là công nhân, các chủ doanh nghiệp để từng bước thành lập được tổ chức đảng trong doanh nghiệp.
     Hai là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược - khâu then chốt, đặc biệt quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
     Đổi mới, hoàn thiện, quản lý chặt chẽ quy trình công tác cán bộ, trọng tâm là khâu đánh giá cán bộ. Trong toàn bộ quy trình công tác cán bộ, đánh giá cán bộ là khâu đặc biệt quan trọng; đánh giá đúng thì quy hoạch chính xác, bố trí đề bạt, sử dụng cán bộ đúng; đánh giá sai sẽ dẫn đến hậu quả lớn, khôn lường. Cần tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ theo hướng: Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của cán bộ; mở rộng diện tham gia đánh giá, các kênh đánh giá cán bộ, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và vai trò của nhân dân; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, sâu sát, chính xác trong quá trình đánh giá cán bộ. Xây dựng quy định đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, tích cực, đa chiều theo tiêu chí cụ thể bằng sản phẩm, hiệu quả công việc; công khai kết quả và so sánh với các chức danh tương đương, gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
     Ban hành quy định cán bộ, lãnh đạo quản lý phải xây dựng chương trình công tác năm; cơ quan quản lý cán bộ theo phân cấp thực hiện duyệt, giám sát và đánh giá hiệu quả công tác hàng năm chương trình công tác của các cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thực hiện phân cấp trong đánh giá cán bộ gắn với trách nhiệm của người đứng đầu theo hướng công khai minh, minh bạch
     Đổi mới công tác quy hoạch cán bộ, tạo nguồn cán bộ: Xây dựng và triển khai hướng dẫn bổ sung quy hoạch cán bộ giai đoạn 2020-2025 và xây dựng quy hoạch cán bộ giai đoạn 2025-2030 theo phương châm “động, mở”, giảm về số lượng người quy hoạch một chức danh và tăng cán bộ trẻ để nâng cao chất lượng quy hoạch và tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số. Xây dựng Đề án quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh nhiệm kỳ 2025-2030 đảm bảo chất lượng và có tính khả thi cao.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, để đáp ứng các mục tiêu chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới. Xây dựng Quy định quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên phạm vi toàn quốc, để nâng cao chất lượng công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp như hiện nay.
     Đổi mới công tác bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử: Tiếp tục thực hiện chủ trương điều chuyển, thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ công tác được giao. Tạo môi trường, động lực để cán bộ phấn đấu, sáng tạo, cống hiến và phát triển.
     Ba là, tăng cường và đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kiểm soát chặt chẽ quyền lực cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên
     Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xẩy ra tiêu cực, nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Xây dựng hướng dẫn cụ thể Quy định 205-QĐ/TW, ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Phát huy vai trò nêu gương trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương.
     Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Hằng năm xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra công vụ các cơ quan, đơn vị, các ngành, các địa phương để nâng cao ý thức, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ và nội quy, quy chế, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất và kiểm tra dấu hiệu vi phạm; coi trọng công tác tự kiểm tra, tự giám sát của các cấp uỷ, tổ chức đảng để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ từ sớm, từ xa để bảo vệ cán bộ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, làm cho nhân dân thật sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện, xây dựng và phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
---------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
(1). Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
(2). Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá XII, ngày 30 tháng 12 năm 2016.
(3). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
(4). Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII.
(5). Đảng Cộng sản Việt Nam: Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 Quy định về những điều đảng viên không được làm, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
Nguồn: hdll.vn

 

Tin liên quan