Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ

THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN THÁNG6/2022

05-06-2022 18:37

      

     Từ ngày 4/5 - 10/5/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII họp Hội nghị lần thứ 5 để thảo luận, cho ý kiến và quyết định nhiều nội dung quan trọng. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì, phát biểu khai mạc và bế mạc hội nghị. Hội nghị đã nghe các báo cáo: tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Đồng thời nghe báo cáo Đề án xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; Đề án thành lập ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021 và một số vấn đề quan trọng khác. Sau khi xem xét, thảo luận các tờ trình, đề án và báo cáo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết nghị thông qua nội dung các văn kiện: Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất; tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”; Nghị quyết về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới”; Nghị quyết về “Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới”.

     Ngày 06/5/2022, diễn ra Hội nghị ký kết Quy chế phối hợp công tác giữa Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh, Thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam tỉnh Lạng Sơn, nhiệm kỳ 2021 - 2026. Dự buổi lễ có đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh; đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; đồng chí Đoàn Thị Hậu, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; đồng chí Nông Dương Sơn, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh... Tại hội nghị, trên cơ sở thống nhất cao các nội dung phối hợp, các đồng chí lãnh đạo 4 cơ quan đã ký kết thực hiện Quy chế phối hợp với 3 chương, 17 điều, quy định về nguyên tắc, nội dung, phương thức và trách nhiệm trong phối hợp công tác giữa Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND, UBND, Ban Thường trực MTTQ Việt Nam Việt Nam tỉnh trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật. Nội dung phối hợp gồm: tham gia xây dựng pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); tiếp xúc cử tri, giải quyết và giám sát việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri, giải quyết kiến nghị sau giám sát, chất vấn, giải trình; hoạt động giám sát, khảo sát, phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; tiếp công dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; tổ chức các kỳ họp HĐND tỉnh; giải quyết những vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh giữa hai kỳ họp HĐND tỉnh; giải trình, chất vấn và trả lời chất vấn tại phiên họp Thường trực HĐND tỉnh, thảo luận và báo cáo giải trình tại kỳ họp HĐND tỉnh; xây dựng Nghị quyết của HĐND tỉnh; tổ chức thực hiện các Luật, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các VBQPPL của HĐND, UBND tỉnh ban hành; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND tỉnh bầu; thực hiện công tác bầu cử ĐBQH, đại biểu HĐND tỉnh; thực hiện chế độ thông tin, phối hợp làm việc.
     Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy nhấn mạnh việc ký, thực hiện quy chế phối hợp nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn nữa trong việc thực hiện công việc chung có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, qua đó góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trên các lĩnh vực công tác của tỉnh; đề nghị các cơ quan tập trung bám sát chức năng, nhiệm vụ và các nội dung đã thống nhất để chủ động, tích cực phối hợp thực hiện quy chế, chỉ đạo các bộ phận liên quan phối hợp tổ chức thực hiện theo chương trình, kế hoạch công tác; phân công, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ phận chuyên môn theo dõi, trao đổi thông tin, phối hợp thực hiện nhiệm vụ, tham mưu, đề xuất thực hiện các nội dung, giải quyết khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện quy chế theo phương châm "Rõ người, rõ việc, rõ thời gian", bảo đảm kịp thời, đúng quy định, đạt hiệu quả cao nhất; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân để phối hợp giải quyết các vấn đề phát sinh, bảo đảm thấu đáo, đúng quy định, tạo được sự đồng tình, đồng thuận trong Nhân dân; thường xuyên trao đổi thông tin, xem xét giải quyết, điều chỉnh, bổ sung quy chế kịp thời; tổ chức sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả thực hiện quy chế.
     Từ ngày 12/5 đến 23/5/2022, SEA Games 31 - Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 đã diễn ra tại Hà Nội và 11 tỉnh, thành lân cận. SEA Games 31 tổ chức 40 môn thi với 526 nội dung và có sự góp mặt của 11 đoàn thể thao Đông Nam Á, với tổng số vận động viên, huấn luyện viên, cán bộ, trọng tài khoảng 10.000 người. Ban Tổ chức SEA Games 31 đã trao tổng số 1.759 huy chương, với 30 kỷ lục SEA Games được xác lập; đồng thời vinh danh 4 gương mặt tiêu biểu, trong đó, đoàn Thể thao Việt Nam có 2 đại diện là "kình ngư" Nguyễn Huy Hoàng và vận động viên điền kinh Nguyễn Thị Oanh. Hai người còn lại là vận động viên nữ ở môn Bơi của Singapore - Jing Wen Quah - và vận động viên nam môn Điền kinh của Thái Lan - Joshua Robert Atkinson. Đoàn Thể thao Việt Nam đã đi vào lịch sử của SEA Games với kỷ lục đoạt 205 huy chương vàng; phá kỷ lục SEA Games tại 17/30 nội dung; khẳng định sức mạnh nổi bật ở các môn: Điền kinh (22 huy chương vàng), bơi (11 huy chương vàng), bóng đá (U.23 Việt Nam và đội tuyển nữ quốc gia bảo vệ thành công chức vô địch), vật (17 huy chương vàng), đua thuyền (16 huy chương vàng)... SEA Games 31- Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 là sự kiện thể thao lớn nhất của khu vực, thành công của SEA Games 31 đã khẳng định vị thế của thể thao Việt Nam trong khu vực, đồng thời là dịp để bạn bè quốc tế chứng kiến hình ảnh một Việt Nam giàu đẹp, phát triển và đã kiếm soát dịch bệnh thành công sẵn sàng đón du khách quốc tế trở lại một cách an toàn. Với thông điệp "Vì một Đông Nam Á mạnh mẽ hơn", SEA Games 31 không chỉ lan tỏa tinh thần thể thao cao thượng, đoàn kết và hữu nghị đến với hơn 600 triệu người dân của 11 quốc gia trong khu vực, mà còn là điểm sáng khẳng định sức mạnh của Đông Nam Á sau 2 năm đấu tranh với đại dịch.          
     Ngày 18/5/2022, đã diễn ra Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng chủ trì hội nghị có đồng chí Võ Văn Thưởng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa và Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành. Dự hội nghị tại điểm cầu tỉnh Lạng Sơn có đồng chí Nguyễn Quốc Đoàn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ; đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh và hơn 13 nghìn đại biểu tham dự tại 183 điểm cầu cấp tỉnh, huyện, xã. Hội nghị đã nghe đồng chí Trần Tuấn Anh, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương trình bày báo cáo những nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị. Nghị quyết có kết cầu gồm 4 phần: Tình hình và nguyên nhân; quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và tầm nhìn; các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu; tổ chức thực hiện. Mục tiêu tổng quát là: Đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng đô thị hoá, phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới, hình thành một số đô thị, chuỗi đô thị động lực thông minh kết nối với khu vực và thế giới. Thể chế, chính sách về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững cơ bản được hoàn thiện. Kết cấu hạ tầng của đô thị, nhất là hạ tầng kỹ thuật khung và hạ tầng xã hội thiết yếu được xây dựng và phát triển đồng bộ, hiện đại. Kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Chất lượng sống tại đô thị ở mức cao, bảo đảm đáp ứng cơ bản nhu cầu về nhà ở và hạ tầng xã hội cho cư dân đô thị. Phát triển kiến trúc đô thị hiện đại, xanh, thông minh, giàu bản sắc, các yếu tố văn hóa đặc trưng được giữ gìn và phát huy. Một số chỉ tiêu cụ thể như: tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2025 đạt tối thiểu 45%, đến năm 2030 đạt trên 50%; đến năm 2025, cả nước có khoảng 950 - 1.000 đô thị, đến năm 2030 khoảng 1.000 - 1.200 đô thị; đến năm 2030, hình thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế, giáo dục và đào tạo, văn hoá cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN… Phát biểu chỉ đạo, đồng chí Võ Văn Thưởng, Thường trực Ban Bí thư đề nghị các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, nhận thức đầy đủ, sâu sắc nội dung Nghị quyết số 06; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, thống nhất nhận thức và hành động, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cả hệ thống chính trị, sớm xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết với lộ trình, phân công cụ thể; bảo đảm quy hoạch đô thị có tầm nhìn dài hạn, đồng bộ và hiện đại; tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và ban hành các cơ chế chính sách có tính đột phá vượt trội cho phát triển đô thị bền vững; đồng thời thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn, đảm bảo sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của Trung ương; triển khai thực hiện đồng bộ 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết. Ban Cán sự đảng Chính phủ sớm ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết phù hợp với từng địa phương, từng vùng.
     Ngày 19/5/2022, đã diễn ra Hội nghị giao ban trực tuyến toàn quốc đánh giá 01 năm triển khai thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương dự và chỉ đạo hội nghị. Tham dự tại điểm cầu tỉnh Lạng Sơn có đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; các đồng chí lãnh đạo HĐND, UBND tỉnh; Thường trực, ủy viên Ban Thường vụ các Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy, lãnh đạo các sở, ban, ngành, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh. Theo báo cáo, kết quả thực hiện Kết luận số 01 bước đầu đã góp phần tạo ra tiền đề, nền tảng cho việc thúc đẩy mạnh mẽ việc học tập và làm theo Bác trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Kết quả thực hiện cho thấy tác động, sức lan tỏa mạnh mẽ của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Kết luận số 01 trong toàn Đảng, toàn xã hội, khơi lên tâm huyết, kỷ cương, trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, thu hút sự quan tâm của các tầng lớp Nhân dân, tạo ra bầu không khí mới về xây dựng đạo đức trong Đảng, trong xã hội; sự linh hoạt, thích ứng kịp thời, hiệu quả trong tổ chức triển khai Kết luận số 01 trong bối cảnh diễn biến dịch Covid-19 đã góp phần khắc phục hậu quả đại dịch, ổn định tình hình an ninh, chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; các chương trình hành động được cấp ủy các cấp xây dựng, ban hành, nhanh chóng đi vào thực tiễn cuộc sống, đặc biệt là giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm trong xã hội. Phát biểu chỉ đạo, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đánh giá cao kết quả triển khai thực hiện Kết luận số 01 trong một năm vừa qua. Về nhiệm vụ thời gian tới, đồng chí đề nghị các cấp, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo Kết luận số 01, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, Quy định số 37-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm, tập trung làm tốt hơn nữa nội dung học tập Bác, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên; tiếp tục nghiên cứu, triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới, đồng thời khẩn trương xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu nêu cao tinh thần gương mẫu, tự giác, trách nhiệm trong việc học tập và làm theo Bác. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng; tăng cường và phát huy vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, bảo đảm việc học tập và làm theo Bác được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, thực chất. Trong chương trình hội nghị, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ra mắt bộ sách “Vang vọng lời non nước” gồm 12 tập, trong đó mỗi tập lấy một câu nói về tư tưởng, quan điểm của Bác làm chủ đề chính, qua đó góp phần trực tiếp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh đi sâu hơn vào đời sống của người dân Việt Nam.
     Ngày 20/5/2022, UBND tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Tập đoàn SunGroup tổ chức Lễ khởi công dự án Quần thể khu du lịch sinh thái, cáp treo Mẫu Sơn. Dự buổi lễ có đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; đồng chí Đoàn Thị Hậu, Chủ tịch HĐND tỉnh; các đồng chí lãnh đạo tỉnh, nguyên lãnh đạo tỉnh qua các thời kỳ; lãnh đạo các sở, ban, ngành, các huyện, thành phố. Về phía trung ương có đồng chí Phạm Ngọc Thưởng, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh; về phía chủ đầu tư có ông Nguyễn Quang Huy, Chủ tịch SunGroup vùng Thủ đô. Quần thể khu du lịch sinh thái, cáp treo Mẫu Sơn là dự án trọng điểm của tỉnh, nằm trong lộ trình phát triển du lịch Mẫu Sơn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, để trở thành khu du lịch quốc gia, với sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch nghỉ dưỡng núi, du lịch văn hóa tâm linh và du lịch sinh thái của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ và cả nước. Dự án có quy mô xây dựng trên 690ha với tổng mức đầu tư trên 7.300 tỷ đồng chia làm 3 giai đoạn, dự kiến hoàn thành trong năm 2028, đáp ứng nhu cầu khoảng 1 triệu khách/năm. Dự án với nhiều hạng mục có tiêu chuẩn và đẳng cấp quốc tế, đưa Mẫu Sơn trở thành một “thị trấn tuyết” độc đáo, được kỳ vọng sẽ thúc đẩy kinh tế du lịch Lạng Sơn bứt phá, đưa du lịch từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, theo hướng bền vững, chuyên nghiệp. Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định, dự án Quần thể khu du lịch sinh thái, cáp treo Mẫu Sơn có ý nghĩa rất quan trọng với tỉnh, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển ngành du lịch, dịch vụ nói riêng và nền kinh tế của tỉnh nói chung. Để công trình triển khai thuận lợi và sớm đưa vào khai thác, đồng chí đề nghị: Chủ đầu tư tập trung nguồn lực, bố trí nhân lực, thiết bị máy móc để triển khai thi công, phối hợp với huyện Lộc Bình, các xã trong vùng dự án, cơ quan liên quan thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường, bảo đảm an toàn giao thông....; các sở, ban, ngành liên quan thường xuyên kiểm tra, theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, đề xuất UBND tỉnh tháo gỡ vướng mắc liên quan đến dự án; UBND huyện Lộc Bình tiếp tục tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của dự án, vận động Nhân dân chấp hành tốt các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, bảo đảm bàn giao mặt bằng kịp thời phục vụ thi công công trình đạt tiến độ đề ra, làm tốt công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội; Nhân dân trong vùng dự án tích cực ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị thi công hoàn thành nhiệm vụ xây dựng công trình.
     Ngày 27/5/2022, UBND tỉnh tổ chức Hội nghị đánh giá Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2021, nhiệm vụ, giải pháp cải thiện Chỉ số PCI năm 2022. Đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị. Cùng dự có các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, lãnh đạo HĐND, UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố, Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh và một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tham dự hội nghị còn có đại diện Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Theo báo cáo kết quả Chỉ số PCI năm 2021 do VCCI công bố: Năm 2021, Chỉ số PCI của tỉnh Lạng Sơn đạt 63,92 điểm (tăng 1,49 điểm), tăng 13 bậc so với năm 2020, xếp hạng 36/63 tỉnh, thành phố, xếp thứ 6/14 tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc. Trong 10 chỉ số thành phần, có 05 chỉ số thành phần tăng điểm và tăng bậc: Tính năng động của chính quyền tỉnh, chi phí thời gian, tiếp cận đất đai, chi phí không chính thức, thiết chế pháp lý và an ninh trật tự; có 01 chỉ số thành phần tăng điểm nhưng giảm bậc: chính sách hỗ trợ doanh nghiệp; có 03 chỉ số giảm điểm và giảm bậc: Tính minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, chi phí gia nhập thị trường; có 01 chỉ số giảm điểm nhưng tăng bậc: Đào tạo lao động. Tại Hội nghị, đại diện các sở, ngành, Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh đã có nhiều kiến nghị, đề xuất những giải pháp để cải thiện chỉ số PCI. Trong đó, có những nội dung liên quan đến việc tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi phát triển sản xuất kinh doanh sau đại dịch Covid-19; tiếp tục thực hiện hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp trong tiếp cận các nguồn vốn, tạo mặt bằng, đất đai, hoàn thiện các thủ tục hành chính theo quy định... Phát biểu kết luận, đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh ghi nhận sự cố gắng, nỗ lực của các cấp chính quyền, các cơ quan, đơn vị trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp được giao về cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Đồng chí cũng chỉ rõ các tồn tại, hạn chế, bất cập để các cơ quan, đơn vị nghiêm túc thực hiện khắc phục trong thời gian tới, nhất là đối với các chỉ số thành phần không đạt kết quả theo mục tiêu đã đề ra. Để cải thiện và nâng cao thứ hạng PCI của tỉnh trong năm 2022, đồng chí yêu cầu các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố cần khẩn trương xây dựng kế hoạch thực hiện, trong đó cần xác định trách nhiệm cụ thể đối với từng chỉ số thành phần, đồng thời, xác định rõ mục tiêu cần đạt được, lộ trình thực hiện trong việc cải thiện các chỉ số thành phần. Bên cạnh đó, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần tập trung nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong giải quyết thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao chất lượng, năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ./.
Tin tổng hợp
 
 
“TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI LẬP VỚI CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN"
-  MỘT QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC ​
 
 
 
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Ảnh: Tư liệu
 
     Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời minh chứng rằng, nhờ có Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đường, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc và đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng cũng cho thấy, Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai cấu phần hợp thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và hai yếu tố này có quan hệ hữu cơ với nhau, không thể thiếu một yếu tố nào.
     Tuy nhiên, thời gian qua đã xuất hiện một số ý kiến tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí còn tìm cách luận giải cho rằng chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với cách mạng Việt Nam, còn Chủ nghĩa Mác - Lênin là “yếu tố ngoại lai” không phù hợp và đi đến kết luận rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với Chủ nghĩa Mác - Lênin”(?). Đây là một quan điểm sai trái, xuyên tạc về mối quan hệ gắn bó mật thiết, hữu cơ giữa Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tưởng như là đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự khẳng định những công lao, cống hiến của Hồ Chí Minh với đất nước và dân tộc Việt Nam, nhưng thực chất là nhằm tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác - Lênin; âm mưu phủ định cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh là Chủ nghĩa Mác - Lênin; phủ định thế giới quan và phương pháp luận khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh là Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là bước đi nhằm tiến tới phủ định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
     Trên thực tế, các thế lực phản động, thù địch chưa bao giờ và chắc chắn sẽ không bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, trong đó nổi lên hiện nay là sự chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Rõ ràng, tư tưởng, văn hóa là mặt trận hết sức gay gắt, quyết liệt của cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, làm thất bại các âm mưu phá hoại của các thế lực phản động, thù địch. Những mưu toan kích động, xuyên tạc nhằm “hạ bệ thần tượng”, làm nghi ngờ, hoang mang, dao động, thậm chí gây chia rẽ, mâu thuẫn, hỗn loạn nhận thức về nền tảng tư tưởng của Đảng trong hàng ngũ những người cộng sản, từ đó dẫn tới mất phương hướng, mâu thuẫn, rối loạn trong tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn, đưa đến những sai lầm, làm mất uy tín, ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng nhân dân và do đó đánh mất vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị, đang ngày càng xuất hiện nhiều hơn, có lúc công khai, trắng trợn, có lúc tinh vi, xảo quyệt. Việc tuyên truyền, xuyên tạc về Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tách rời Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí cho rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với Chủ nghĩa Mác - Lênin” nằm trong những mưu toan đó của các thế lực phản động, thù địch và thực chất không có gì mới.
 
 
 
     Trước hết, cần phải nhận rõ mưu toan cắt xén và đánh tráo khái niệm của các ý kiến cố ý xuyên tạc, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác - Lênin.
     Những ý kiến xuyên tạc về Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, Hồ Chí Minh là một người yêu nước, là một người theo chủ nghĩa dân tộc, chỉ mong muốn làm thế nào để giải phóng đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc. Trong khi đó, Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết về đấu tranh giai cấp, là hệ tư tưởng chỉ của riêng giai cấp công nhân, nên đối lập với cả chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Những ý kiến kiểu này đã cố ý không thấy một thực tế là Hồ Chí Minh không chỉ muốn giải phóng đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc, mà quan trọng hơn nữa là phải làm thế nào để dân tộc được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, ấm no thực sự sau khi giành được độc lập, như Người đã từng mong muốn: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1]. Bởi trong quan niệm của Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[2], “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[3].
     Đó chính là lý do để lý giải vì sao mặc dù đánh giá cao cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp và có những thiện cảm, đúc kết được những kinh nghiệm quý báu từ cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, nhưng Hồ Chí Minh đã nhận xét những cuộc cách mạng đó về bản chất đều là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, chỉ mang lại quyền lợi cho một thiểu số người trong xã hội và quyết định không lựa chọn con đường phát triển của dân tộc Việt Nam theo hình mẫu của các cuộc cách mạng này. Thực tế, chúng ta đều biết, Người đã lựa chọn con đường cách mạng do Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra, con đường cách mạng vô sản, thực hiện ba sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong một chỉnh thể nhất quán. Con đường đó Hồ Chí Minh đã lựa chọn, bởi vì nó thực sự mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người dân, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số, có tôn giáo hay không theo tôn giáo, nam hay nữ,... đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc một cách triệt để mà Người luôn theo đuổi.
Những ý kiến cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đánh tráo khái niệm khi luận giải Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề dân tộc lên trên hết và trước hết, trong khi Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ coi trọng vấn đề giai cấp. Như vậy, rõ ràng là tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với Chủ nghĩa Mác - Lênin (?).
    Đúng là trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khi giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề dân tộc lên trên hết và trước hết, vấn đề giai cấp phải xếp sau vấn đề dân tộc và phục vụ cho vấn đề dân tộc. Nhưng đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự quán triệt, vận dụng đúng đắn linh hồn của Chủ nghĩa Mác - Lênin - phương pháp luận duy vật biện chứng vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam; là sự vận dụng quy luật chung vào hoàn cảnh cụ thể, đặc thù, hết sức sinh động, muôn màu, muôn vẻ của những hiện tượng, quá trình lịch sử riêng biệt. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó là cần thiết, theo đúng lời dặn của V.I.Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý thuyết đó chỉ đặt nền móng cho một môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”[4]. Vì vậy, không thể đánh đồng sự vận dụng và phát triển sáng tạo với sự mâu thuẫn, đối lập.
     Thứ hai, cần phải thấy rõ, Hồ Chí Minh luôn nhất quán cả về tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn trong việc đánh giá rất cao Chủ nghĩa Mác - Lênin và khẳng định là một người theo Chủ nghĩa Mác - Lênin
     Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh không chỉ trăn trở tìm kiếm lời giải bài toán làm thế nào, bằng cách nào để giành lại nền độc lập của nước nhà, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị ngoại bang, mà còn mong muốn tìm ra một hệ tư tưởng làm nền tảng cho con đường đi của dân tộc trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng xã hội mới. Qua những trải nghiệm hết sức phong phú trong thực tiễn khảo sát, khảo nghiệm những con đường cứu nước của các dân tộc trên thế giới, Người nhận thức rõ rằng đường lối cứu nước, giải phóng và phát triển dân tộc phải được xây dựng trên một nền tảng tư tưởng nhất định thì mới đảm bảo tính nhất quán và sự thông suốt trong cả tư tưởng và hành động của lực lượng cách mạng, trước hết là lực lượng lãnh đạo, từ đó đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Lực lượng lãnh đạo phải có chủ nghĩa làm cốt và ai cũng phải hiểuai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, tức là phải thống nhất quán triệt, vận dụng chủ nghĩa ấy trong quá trình vận động và tổ chức sự nghiệp cách mạng thì sự nghiệp đó mới thành công được.
     Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, lực lượng lãnh đạo mà không có chủ nghĩa làm nòng cốt thì cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam[5]. Người không có trí khôn thì đương nhiên sẽ không thể có chủ trương, đường lối đúng đắn được; và tàu không có la bàn dẫn đường thì cũng sẽ không thể xác định được hướng đi đúng giữa đại dương mênh mông.
     Nhưng vấn đề thậm chí còn quan trọng hơn nữa trong thời đại của Hồ Chí Minh là Người phải xác định, phải lựa chọn đi theo chủ nghĩa nào, học thuyết nào. Bởi lẽ, như Người từng chỉ rõ “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều”. Đi theo chủ nghĩa nào là vấn đề hết sức quan trọng đặt ra, buộc phải có sự lựa chọn, cân nhắc cho chính xác. Đó là hệ tư tưởng dân chủ tư sản hay hệ tư tưởng vô sản, hoặc nhân danh là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, nhưng thực chất đã bị tha hóa, biến tướng, như chủ nghĩa công liên, nghiệp đoàn vàng, chủ nghĩa xét lại...? Trong bối cảnh đầy những phức tạp, tiềm ẩn nhiều “ngõ cụt” đó, Hồ Chí Minh đã biết phát hiện ra và tìm đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng tiên tiến nhất, cách mạng nhất và nhân văn nhất của thời đại, trong khi những người Việt Nam khác, dù cũng giàu lòng yêu nước và từng sống nhiều năm ở nước ngoài như nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, luật sư Phan Văn Trường... nhưng vẫn không nhìn ra được. Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[6].
     Đó là sự tổng kết, đúc rút của Hồ Chí Minh từ thực tiễn nghiên cứu, khảo sát phong phú các phong trào đấu tranh yêu nước, các cuộc cách mạng của các dân tộc khác nhau trên thế giới.
     Trên nền tảng tư tưởng là Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm ra, hay chính xác hơn là xây dựng lên con đường đi đúng đắn cho bản thân và cũng là con đường đi đúng đắn cho toàn thể dân tộc, được dân tộc lựa chọn. Đó là con đường dựa chủ yếu vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và đoàn kết của toàn thể quốc dân đồng bào, đồng thời tích cực tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh đuổi giặc ngoại xâm, rồi đi tới xây dựng một xã hội mới mang lại hạnh phúc, ấm no thực sự cho tất cả mọi người dân, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, một xã hội không còn áp bức, bất công, thực hiện giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó chính là con đường giải phóng triệt để.
     Chính là trên nền tảng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là phương pháp luận duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp vĩ đại cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, đồng thời Người cũng góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân tiến bộ trên thế giới, trước hết là hoạch định, xây dựng một con đường đi mới đúng đắn, nhân văn.
     Sau này, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định vai trò nền tảng tư tưởng, dẫn đường của Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ vai trò nền tảng, soi đường hết sức quan trọng của Chủ nghĩa Mác - Lênin: “Chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc”[7]; “Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động”[8]; “Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất”[9]; “Chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn đuốc soi sáng con đường cho dân tộc chúng tôi tiến tới tương lai tươi sáng”[10]; Chủ nghĩa Mác - Lênin “không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[11].
     Hồ Chí Minh chính là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, đã mang lại những thành công cho cách mạng Việt Nam và đưa dân tộc Việt Nam đến những thành tựu như hiện nay./.
 

[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.187.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Sđd, tr.64.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Sđd, tr.175.
[4]V.I.Lênin toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.232.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.289.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, Sđd, tr.289.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.359.
[8] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, Sđd, tr.120.
[9] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, Sđd, tr.414.
[10] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 11, Sđd, tr.181.
[11] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Sđd, tr.563.
Nguồn: hdll.vn
 

Tin liên quan