Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ

Thông tin tuyên truyền tháng 5/2023

11-05-2023 16:32

 

     Ngày 11/4/2023, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Lễ công bố Báo cáo thường niên Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2022. Tỉnh Lạng Sơn xếp thứ 15 trong bảng xếp hạng, tăng 21 bậc so với năm 2021 (xếp hạng 36/63 tỉnh, thành phố), với số điểm đánh giá là 67,88 nằm trong nhóm 30 địa phương có chất lượng điều hành tốt nhất trong PCI (gồm: Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Tháp, Thừa Thiên - Huế, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Long An, Lào Cai, Hậu Giang, Bến Tre, Hưng Yên, Lạng Sơn, Khánh Hoà, Lâm Đồng, Hà Tĩnh, Cần Thơ, Hà Nội, Bình Định, Quảng Nam, Nghệ An, Phú Thọ, Thái Nguyên, Trà Vinh, TP.HCM, Thái Bình, Đồng Nai, Ninh Thuận). Theo kết quả VCCI công bố, điểm số PCI tổng hợp của Lạng Sơn tăng mạnh 3,96 điểm (từ 63,92 điểm lên 67,88 điểm). Trong đó, có những chỉ số thành phần có kết quả nổi bật như: gia nhập thị trường tăng 1,34 điểm (từ 5,86 lên 7,20 điểm), tính minh bạch tăng 0,77 điểm (từ 5,61 điểm lên 6,38), cạnh tranh bình đẳng tăng 0,51 điểm (từ 6,31 điểm lên 6,82 điểm). Tuy nhiên, cũng có những chỉ số bị giảm điểm so với năm 2021 như: chính sách hỗ trợ doanh nghiệp giảm 0,77 điểm (từ 6,32 giảm xuống 5,55 điểm), chi phí thời gian giảm 1,2 điểm (từ 7,82 giảm xuống 6,62 điểm)… Báo cáo PCI năm 2022 được xây dựng trên thông tin phản hồi từ 11.872 doanh nghiệp, trong đó có 10.590 doanh nghiệp tư nhân và 1.282 doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Theo kết quả PCI năm nay, các địa phương có chất lượng điều hành kinh tế được đánh giá cao trong bảng xếp hạng: quán quân là tỉnh Quảng Ninh (72,95/100), theo sau là tỉnh Bắc Giang (72,8/100), thành phố Hải Phòng (70,76/100). Tại buổi Lễ công bố Báo cáo PCI 2022, lần đầu tiên VCCI và USAID cũng giới thiệu và công bố Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI). Đây là bộ chỉ số đánh giá và xếp hạng địa phương thân thiện với môi trường dưới góc nhìn từ thực tiễn kinh doanh như mức độ ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường của các doanh nghiệp tại địa phương, trình độ quản trị và ứng xử với môi trường của doanh nghiệp, mức độ quan tâm, sẵn sàng đầu tư về vấn đề môi trường của chính quyền địa phương và nhiều vấn đề môi trường quan trọng khác. PGI được đưa ra nhằm khuyến khích chính quyền các tỉnh, thành phố hướng đến nỗ lực phát triển khu vực tư nhân theo tinh thần Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia và chiến lược quốc gia ứng với phó với biến đổi khí hậu. Kết quả năm đầu tiên cho thấy, Lạng Sơn là tỉnh đứng thứ 02 trong 03 tỉnh đứng đầu Chỉ số PGI là: Trà Vinh, Lạng Sơn và Bắc Ninh

     Ngày 12/4/2023, Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đã công bố báo cáo Chỉ số hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2022. Khai mạc Lễ công bố, bà Ramla Khalidi - Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam nhấn mạnh: Với số lượng phỏng vấn cao nhất từ trước tới nay, đạt 16.117 người trả lời được lựa chọn ngẫu nhiên từ tất cả 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, Báo cáo Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) 2022 được công bố cung cấp dữ liệu và thông tin vô giá về hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp trong 2 năm đầu nhiệm kỳ 2021-2026 và đóng góp cho việc xây dựng chính sách, pháp luật quan trọng trong năm 2023. Tại tỉnh Lạng Sơn, Ban Quản lý Dự án PAPI phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh lập danh sách, tiến hành điều tra, khảo sát đối người dân tại 12 thôn, tổ dân phố trên địa bàn các huyện Hữu Lũng, Lộc Bình và thành phố Lạng Sơn. Đối tượng khảo sát là người dân được chọn ngẫu nhiên từ nhóm dân số từ 18 tuổi trở lên trên; khảo sát với 8 chỉ số nội dung, bao gồm: (1) Tham gia của người dân ở cấp cơ sở; (2) Công khai, minh bạch trong ra quyết định; (3) Trách nhiệm giải trình với người dân; (4) Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công; (5) Thủ tục hành chính công; (6) Cung ứng dịch vụ công; (7) Quản trị môi trường và (8) Quản trị điện tử. Theo kết quả công bố Chỉ số PAPI năm 2022, Quảng Ninh là địa phương dẫn đầu với 47,88 điểm; đứng thứ hai là Bình Dương với 47,45 điểm; thứ ba là Thanh Hóa với 46,02 điểm. Cao Bằng là địa phương xếp vị trí cuối với 38,80 điểm. Chỉ số PAPI năm 2022 tỉnh Lạng Sơn đạt 43,85 điểm, xếp hạng 13/63 tỉnh, thành phố, nằm trong nhóm Cao nhất (nhóm 15 tỉnh, thành phố có điểm số từ 43,51 trở lên). Mặc dù nằm trong nhóm các tỉnh có điểm số Cao nhất, tuy nhiên so với năm 2021, Chỉ số PAPI tỉnh Lạng Sơn năm 2022 giảm cả về điểm và xếp hạng (giảm 1,99 điểm và giảm 09 hạng so với năm 2021).Trong 08 chỉ số nội dung, tỉnh Lạng Sơn có 02 chỉ số nội dung nằm trong nhóm Cao nhất (Tham gia của người dân ở cấp cơ sở; Trách nhiệm giải trình với người dân); có 05 chỉ số nội dung nằm trong nhóm Trung bình cao (Công khai, minh bạch trong việc ra quyết định; Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công; Thủ tục hành chính công; Quản trị môi trường; Cung ứng dịch vụ công) và 01 chỉ số nội dung nằm trong nhóm Trung bình thấp (Quản trị điện tử).Chỉ số PAPI năm 2022 của tỉnh nằm trong nhóm Cao nhất, đã đánh giá một cách khách quan cảm nhận của người dân đối với công tác cải cách hành chính, điều hành kinh tế - xã hội, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại địa phương; tương xứng với kết quả thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong năm 2022 và việc thực hiện các giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý hành chính, phục vụ người dân, tổ chức doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua đánh giá cũng còn có những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới./.
     Ngày 13/4/2023, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Chương trình nói chuyện chuyên đề kỷ niệm 80 năm ra đời “Đề cương về văn hóa Việt Nam”. Dự buổi nói chuyện chuyên đề có đồng chí Dương Xuân Huyên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; đại diện các sở, ban, ngành, tổ chức hội, đoàn thể và các văn nghệ sĩ của tỉnh. Chương trình được kết nối đến các điểm cầu tại UBND các huyện, xã trên địa bàn tỉnh. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Kỷ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương trực tiếp truyền đạt nội dung chuyên đề; phân tích, làm rõ giá trị, nội dung cơ bản của Đề cương về văn hóa Việt Nam và sự phát triển của văn hóa, văn nghệ nước ta 80 năm qua. Đồng thời đóng góp một số ý kiến cho ngành văn hóa của tỉnh trong thời gian tới cần tiếp tục nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ văn hóa các cấp; chú trọng tạo nguồn lực cho sự phát triển của văn hóa, văn nghệ, trong đó chú trọng công tác xã hội hóa… Phát biểu tại chương trình, đồng chí Dương Xuân Huyên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh khẳng định sẽ tiếp thu đầy đủ những ý kiến trao đổi, định hướng tại buổi nói chuyện này và cụ thể hóa bằng những chương trình, kế hoạch, hành động thiết thực, góp phần xây dựng nền văn hóa, con người Lạng Sơn phát triển ngày càng toàn diện, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đề nghị các cấp, ngành của tỉnh tập trung triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản như: tham mưu, đề xuất các cơ chế chính sách đãi ngộ, phát huy tài năng sáng tạo của các văn nghệ sĩ; xây dựng cơ chế, tập trung nguồn lực đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển năng khiếu, tài năng nghệ thuật; đổi mới, nâng cao chất lượng các phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao từ tỉnh đến cơ sở; tiếp tục quảng bá hình ảnh vùng đất, con người Lạng Sơn; tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, văn nghệ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương … Trong khuôn khổ chương trình, các đại biểu đã được xem phóng sự tài liệu về chủ đề: “Lạng Sơn - 80 năm văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, tham quan gian trưng bày chuyên đề “80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam - Những chặng đường lịch sử” với trên 60 tư liệu ảnh, hiện vật tại Trung tâm Hội nghị tỉnh.
      Ngày 14/4/2023, UBND tỉnh tổ chức khai mạc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ 2 - năm 2023 trên địa bàn tỉnh lạng Sơn. Tham dự có đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, lãnh đạo một số sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố cùng đông đảo Nhân dân, du khách trên địa bàn thành phố. Phát biểu khai mạc, đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh, cùng với cả nước, thời gian qua, văn hóa đọc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã có những bước phát triển; hệ thống thư viện công cộng đã được đầu tư xây dựng từ tỉnh đến huyện, 100% số xã trên địa bàn tỉnh đã có tủ sách và các điểm bưu điện văn hóa xã; bên cạnh đó có hệ thống thư viện khác như thư viện trường học, phòng đọc sách của các đơn vị quân đội, công an, các sở, ban, ngành, đoàn thể, các nhà sách, cửa hàng sách cũng đã góp phần tạo cho độc giả được tiếp cận thường xuyên và dễ dàng hơn với sách… Đồng chí đề nghị các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố, cơ quan, đơn vị liên quan cần làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, huy động sự tham gia của cộng đồng và mọi nguồn lực xã hội trong việc đầu tư và phát triển văn hóa đọc và tổ chức các hoạt động để ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam thực sự trở thành ngày hội của cộng đồng, xây dựng và hình thành nét đẹp trong đời sống văn hóa, tinh thần của người dân; tuyên truyền giới thiệu, hướng dẫn kỹ năng lựa chọn và đọc sách trên các phương tiện truyền thông đại chúng một cách có hệ thống và phù hợp với từng đối tượng; tuyên truyền các hình thức tiếp cận sách trong công cuộc chuyển đổi số như các thư viện sách điện tử, các ấn bản sách điện tử; các nhà trường cần đổi mới phương pháp dạy và học, xây dựng thói quen đọc, kỹ năng đọc cho các em học sinh, sinh viên, tạo cho các em niềm hứng khởi khi đọc sách thông qua nhiều hình thức như thuyết trình về văn học, hội diễn văn nghệ, cách chuyển thể từ tác phẩm văn học, hội thi kể chuyện; các em học sinh, sinh viên cần xây dựng cho mình thói quen đọc sách, lựa chọn đề tài hoặc những vấn đề cần đọc cho bản thân, biết vận dụng thành thạo các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu để từ đó định hướng tích lũy nguồn kiến thức cần thiết cho bản thân. Trong chương trình khai mạc, ban tổ chức đã trao tặng sách kỹ năng sống và sách giáo khoa cho 20 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn thành phố Lạng Sơn; các đại biểu được theo dõi những câu truyện lịch sử, truyện thiếu nhi thông qua hình thức nhạc kịch, tham quan các tác phẩm vẽ tranh, các gian trưng bày sách tại Phố đi bộ Kỳ Lừa.
     Ngày 15/4/2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang chủ trì Hội nghị trực tuyến với 9 tỉnh Trung du miền núi phía Bắc về kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2023. Dự hội nghị tại điểm cầu Lạng Sơn có đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố.Theo báo cáo, năm 2023 Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước (NSNN) cho 09 địa phương là gần 49.000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách trung ương (NSTW) trên 32.000 tỷ đồng, nguồn vốn ngân sách địa phương trên 16.800 tỷ đồng; tổng số vốn NSTW đã phân bổ chi tiết đạt 59% tổng số vốn được giao. Đến ngày 31/3/2023, tổng vốn đầu tư công giải ngân của 9 địa phương là trên 3.500 tỷ đồng, đạt 7,23% kế hoạch, thấp hơn bình quân chung cả nước là 10,35%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó có 8/9 địa phương có mức giải ngân trên 5%, riêng tỉnh Sơn La có mức giải ngân thấp chỉ đạt 3,37%. Đối với tỉnh Lạng Sơn, tổng kế hoạch vốn đầu tư công được giao là trên 3.891 tỷ đồng, trong đó đã phân bổ chi tiết 3.191 tỷ đồng, đạt 82% kết hoạch, còn trên 700 tỷ đồng, chiếm 18% kế hoạch của 14 dự án. Tính đến ngày 13/4/2023, tỉnh đã giải ngân được gần 500 tỷ đồng, đạt 12,3% kế hoạch.Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành trung ương giao kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đối với 4 dự án đã hoàn thiện thủ tục đầu tư chưa được giao chi tiết kế hoạch đầu tư công trung hạn; kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân của 3 dự án ODA năm 2022 sang năm 2023; quan tâm bố trí hỗ trợ nguồn tăng thu NSTW năm 2022 để đầu tư một số dự án kết cấu hạ tầng thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh; sớm có hướng dẫn thực hiện Tiểu dự án 2 – Dự án 10 Chương trình mục tiêu quốc gia vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đồng chí khẳng định, thời gian tới, tỉnh sẽ tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt triển khai và giải ngân các dự án đầu tư công năm 2023 bảo đảm mục tiêu đề ra. Kết luận hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đề nghị các bộ, ngành, địa phương nêu cao tinh thần trách nhiệm, phối hợp cùng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện giải ngân vốn đầu tư công. Các địa phương cần triển khai tích cực, quyết liệt hơn nữa công tác này; khẩn trương phân chia nguồn vốn được giao, thực hiện phân cấp trong thẩm quyền quy định; tích cực học tập kinh nghiệm các địa phương có tiến độ giải ngân vốn đầu tư công đạt cao; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc; đồng thời cần lưu ý hạn chế đầu tư dàn trải, phân tán, gây lãng phí nguồn lực, giảm hiệu quả đầu tư, tốn thời gian thực hiện quy trình thủ tục. Đối với  các vướng mắc trong thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia, Phó Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành phấn đấu trình Nghị định sửa đổi Nghị định 27/2022/NĐ-CP, ngày 19/4/2022 trong tháng 5, khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn còn lại để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các địa phương.
     Ngày 15/4/2023, đoàn công tác của Ban Tổ chức Trung ương do đồng chí Trương Thị Mai, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương làm Trưởng đoàn đã làm việc với tỉnh Lạng Sơn về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Đón tiếp và làm việc với đoàn công tác có đồng chí Nguyễn Quốc Đoàn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ; đồng chí Hoàng Văn Nghiệm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh; đồng chí Đoàn Thị Hậu, Chủ tịch HĐND tỉnh; các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh uỷ; lãnh đạo các huyện, thành phố. Tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Quốc Đoàn, Bí thư Tỉnh uỷ đã báo cáo kết quả công tác quý I, nhiệm vụ trọng tâm quý II năm 2023. Theo đó, trong quý I, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ ngay từ đầu năm và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước; giải ngân vốn đầu tư công đạt 13,8% kế hoạch, cao so với mức bình quân chung của cả nước. Công tác chuyển đổi số, cải cách hành chính triển khai thực hiện hiệu quả, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2022 tỉnh Lạng Sơn xếp thứ 15/63 tỉnh, thành phố, tăng 21 bậc so với năm 2021, đứng thứ 02/63 tỉnh, thành về Chỉ số xanh cấp tỉnh. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị đạt kết quả tốt. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được chú trọng, kịp thời định hướng thông tin và dư luận xã hội, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Việc triển khai, quán triệt, học tập các nghị quyết của Đảng đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng được nâng lên. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tích cực, chủ động ban hành và tổ chức triển khai chương trình kiểm tra, giám sát năm 2023, tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Công tác dân vận tiếp tục được đổi mới, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa bàn, đơn vị; Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, tạo sự đồng thuận trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố vững chắc. Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Trương Thị Mai, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương biểu dương, ghi nhận, đánh giá cao những kết quả, thành tích Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tỉnh Lạng Sơn đã đạt được trời gian qua, duy trì ổn định phát triển kinh tế -xã hội của năm 2022 và 3 tháng đầu năm 2023 có nhiều chuyển biến tích cực. Đặc biệt, tỉnh Lạng Sơn đã được xếp hạng chỉ số PCI thứ 15/63 tỉnh, thành phố, một kết quả rất tốt, thể hiện năng lực cạnh tranh cấp của tỉnh ngày càng được nâng lên rõ rệt, chỉ số xanh cấp tỉnh đứng thứ 02 toàn quốc thể hiện sự phát triển bền vững gắn với bảo vệ tốt môi trường. Cải cách hành chính được quan tâm tích cực, 100% xe hàng khai báo trực tuyến trên Nền tảng cửa khẩu số, chữ ký số được triển khai 100%... Đồng chí đề nghị, Lạng Sơn đưa chỉ tiêu kinh tế số vào trong thành phần tăng trưởng kinh tế của tỉnh, cùng bắt nhịp chung với cả nước; phấn đấu sớm hoàn thành các tuyến đường giao thông lớn kết nối với các tỉnh, vùng trong khu vực, nhất là kết nối giao thông với tỉnh Quảng Ninh để cùng thúc đẩy phát triển du lịch, dịch vụ, thương mại của cả 2 tỉnh. Đối với công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tiếp tục quan tâm sâu sắc đến việc quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, văn bản của Đảng. Đối với việc triển khai thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương, tỉnh Lạng Sơn tiếp tục phấn đấu đạt được những kết quả, chỉ tiêu cao hơn nữa, đặc biệt là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới nhưng giữ vững nguyên tắc; đổi mới ở cách thức thực hiện trên cơ sở lựa chọn, triển khai cụ thể hoá các nghị quyết, chỉ thị, kết luận theo hướng sát và phù hợp nhất với thực tiễn; đổi mới phong cách, lề lối trong xây dựng văn bản và tổ chức triển khai thực hiện. Đồng chí nhấn mạnh, năm 2023 là năm thứ 3, năm bản lề, rất quan trọng để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, tỉnh Lạng Sơn tiếp tục nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ tiêu Nghị quyết XIII của Đảng đã đề ra.
     Ngày 24, 25/4/2023, UBND tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam (VACOD) tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch VACOD - Lạng Sơn 2023. Đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn và ông Nguyễn Hồng Sơn, Chủ tịch VACOD đồng chủ trì hội nghị. Cùng dự hội nghị có đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; đồng chí Đỗ Thành Trung, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; đại diện lãnh đạo các cục, vụ, viện của một số bộ, ban, ngành trung ương; lãnh đạo UBND tỉnh, lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, lãnh đạo các sở, ban, ngành và các huyện, thành phố của tỉnh Lạng Sơn; các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học, nhà quản lý trên các lĩnh vực và hơn 300 DN trên toàn quốc...Phát biểu khai mạc Hội nghị, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn, Chủ tịch VACOD cho biết, Lạng Sơn được mệnh danh là “hòn ngọc phía Bắc của Tổ quốc", được thiên nhiên ban tặng cảnh sắc núi non hùng vĩ, cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, Lạng Sơn được biết đến với nhiều di tích lịch sử, danh thắng nổi tiếng cũng truyền thống lịch sử lâu đời, với nền văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh... tạo nên một bức tranh văn hóa đa màu thống nhất, cùng với đó là nhiều sản vật xứ Lạng phong phú, độc đáo đã được ghi nhận. Lạng Sơn có tiềm năng lớn về du lịch, thương mại, đặc biệt là thương mại vùng biên, có vị trí địa lý rất tốt để phát triển kinh tế. Thời gian qua, Lạng Sơn nổi lên như một điểm sáng đầu tư ở khu vực Đông Bắc với lợi thế về vị trí gần cửa khẩu, hạ tầng hoàn thiện nhiều dự án lớn và phát triển đồng bộ thương mại, du lịch. Hội nghị được tổ chức nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để các doanh nghiệp (DN) có cơ hội tìm hiểu, tiếp cận trực tiếp các dự án đầu tư, thương mại, du lịch tiềm năng của tỉnh, nắm rõ những cơ chế, chính sách ưu đãi của tỉnh Lạng Sơn dành cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, thông qua những cam kết, chia sẻ của lãnh đạo tỉnh sẽ giúp cho DN có góc nhìn đa chiều và sâu sát hơn để chuẩn bị hiệu quả cho dự án trong tương lai. Đồng thời, Hội nghị cũng là dịp để các DN gặp gỡ, kết nối, tìm kiếm, mời gọi những cơ hội hợp tác kinh doanh, mở rộng thị trường sản xuất, kinh doanh. Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Hồ Tiến Thiệu, Chủ tịch UBND tỉnh cho biết, tỉnh Lạng Sơn có đường biên giới với Trung Quốc dài 231,74 km tiếp giáp Trung Quốc với 12 cửa khẩu, trong đó có 2 cửa khẩu quốc tế, 1 cửa khẩu quốc gia và 9 cửa khẩu phụ, có vị trí quan trọng trong giao thương của Việt Nam với Trung Quốc và Trung Quốc với các nước ASEAN. Lạng Sơn là tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế cửa khẩu, các loại cây trồng nông - lâm nghiệp, công nghiệp, du lịch với những danh thắng nổi tiếng, nhiều di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia, quốc gia đặc biệt và các lễ hội độc đáo. Thời gian qua, công tác cải cách hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh đã có sự cải thiện tích cực, năm 2022, Lạng Sơn nằm trong nhóm 30 tỉnh, thành phố có điểm PCI hàng đầu Việt Nam, xếp thứ 15/63 tỉnh, thành phố, đứng thứ 2 trong top 3 tỉnh, thành phố có Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) đứng đầu năm 2022. Trong giai đoạn 2016 - 2022, toàn tỉnh đã thu hút được 154 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 60.000 tỷ đồng. Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh, xác định việc thu hút nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước là sự bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm mới, nâng cao thu nhập cho người dân, tỉnh Lạng Sơn đã và đang tập trung thực hiện cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch, bình đẳng và nâng cao năng lực cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu của thị trường xu thế hội nhập quốc tế, thay đổi từ tư duy, cách tiếp cận, tổ chức xúc tiến đầu tư đến xây dựng cơ chế chính sách thu hút, ưu đãi đầu tư để thúc đẩy dòng vốn khu vực tư nhân đầu tư vào tỉnh một cách tích cực, hài hòa, hợp lý và hiệu quả. Với sự quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ của các các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, sự ủng hộ của các nhà đầu tư, cộng đồng DN và sự chung sức, đồng lòng, quyết tâm của toàn Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh, Lạng Sơn sẽ là môi trường đầu tư, là điểm đến tin cậy và thành công của các nhà đầu tư, của DN và du khách trong hiện tại và tương lai. Trong chương trình hội nghị, các đại biểu đã trao đổi, thảo luận những khó khăn, vướng mắc về cơ chế chính sách khi tìm hiểu, đầu tư tại tỉnh Lạng Sơn, đồng thời kiến nghị, đề xuất một số giải pháp giúp tỉnh Lạng Sơn trong công tác hoạch định chính sách xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch, thu hút nhiều khách du lịch, thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh phù hợp với thực tiễn của địa phương. Trong chương trình, các doanh nghiệp đi khảo sát các dự án đã đầu tư và những dự án tỉnh Lạng Sơn đang kêu gọi đầu tư, đánh giá, khảo sát Khu kinh tế cửa khẩu, các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh.
     Ngày 27/4/2023, Sở Xây dựng tỉnh đã tổ chức toạ đàm kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống ngành xây dựng Việt Nam (29/4/1958-29/4/2023) và 75 năm ngày kiến trúc Việt Nam (27/4/1948-27/4/2023). Tham dự có đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, lãnh đạo Sở Xây dựng qua các thời kỳ, lãnh đạo các sở, ngành, UBND các huyện thành phố và đông đảo cán bộ công chức, viên chức đang công tác tại ngành xây dựng Lạng Sơn. Tại buổi toạ đàm, các thế hệ lãnh đạo, cán bộ ngành xây dựng qua các thời kỳ đã ôn lại chặng đường 65 năm xây dựng và phát triển và 75 năm ngày kiến trúc Việt Nam. Theo đó, tháng 4/1948 Hội nghị Kiến trúc sư đầu tiên được tổ chức và ngày 11/4/2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2008/QĐ-TTg-CP về ngày kiến trúc Việt nam trong đó lấy ngày 27/4 hàng năm là ngày Kiến trúc Việt Nam. Đối với ngành xây dựng, thì cách đây 65 năm, ngày 29/4/1958 tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá I đã quyết định thành lập Bộ kiến trúc (tiền thân của Bộ Xây dựng ngày nay). Sự kiện quan trọng này là mốc son lịch sử đánh dấu bước khởi đầu quan trọng của ngành xây dựng nước ta trong suốt chặng đường xây dựng và trưởng thành. Đối với ngành xây dựng Lạng Sơn, theo tài liệu ngay sau khi Bộ Kiến trúc được thành lập thì Uỷ ban hành chính tỉnh Lạng Sơn đã Quyết định thành lập Ty Kiến trúc Lạng Sơn do đồng chí Ngô Mai được giao phụ trách. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, ngành xây dựng Lạng Sơn đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt và góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Tỉnh uỷ, UBND tỉnh giao. Phát biểu tại buổi toạ đàm, đồng chí Lương Trọng Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh biểu dương những đóng góp to lớn của ngành xây dựng trong công tác kiến thiết, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lạng Sơn trong suốt chặng đường 65 năm xây dựng và phát triển. Đồng chí cũng đề nghị ngành xây dựng thời gian tới tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết tập trung thực hiện quyết liệt hiệu quả chương trình hành động số 74-CTr/TU ngày 22/3/2023 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 và các văn bản chỉ đạo có liên quan đến ngành; tiếp tục tham mưu, rà soát các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động xây dựng cho tỉnh để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm phục vụ hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành; đổi mới, nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đô thị bền vững, phối hợp với các địa phương tăng cường công tác quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn tỉnh; bên cạnh đó, đồng chí đề nghị đội ngũ lãnh đạo, cán bộ ngành xây dựng tiếp tục thực hiện nghiêm túc chủ đề “siết chặt kỷ cương, tăng cường trách nhiệm, quyết liệt hành động, sáng tạo bứt phá”, tăng cường trách nhiệm trong công tác quản lý xây dựng, quản lý quy hoạch đô thị, thực hiện tốt công tác cung cấp dịch vụ công thuộc lĩnh vực ngành xây dựng nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn theo đúng quy định của pháp luật. Trong chương trình toạ đàm, lãnh đạo UBND tỉnh và lãnh đạo Sở Xây dựng đã trao tặng khen thưởng cho các tập thể cá nhân có thành tích xuất sắc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của ngành trong giai đoạn 2018-2023 và đợt thi đua cao điểm kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống ngành xây dựng.
Tin tổng hợp
 
 
 
KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC VÀ PHỦ NHẬN
CHỦ TRƯƠNG HÒA HỢP DÂN TỘC
 
     Chiến tranh đã lùi xa 48 năm và hành trình cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng đã được gần nửa thế kỷ. Trong hành trình đó, vấn đề hòa hợp dân tộc luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, thực hiện nhất quán; được Nhân dân Việt Nam, bạn bè quốc tế công nhận. Đó là sự thật lịch sử không thể xuyên tạc và phủ nhận.
 
 
Ảnh minh hoạ
 
     NƯỚC VIỆT NAM LÀ MỘT, DÂN TỘC VIỆT NAM LÀ MỘT
     Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào mùa Xuân 1975 đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc: Cả nước đồng lòng, chung sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và từng bước phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... và đi lên CNXH. Hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ luôn khát vọng thiêng liêng, chính đáng của bất cứ quốc gia - dân tộc nào trên thế giới. Từ sau ngày 30/4/1975, toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hiện thực hóa được khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất. Đó là một sự thật lịch sử, hiển nhiên và khách quan.
     Tuy nhiên, mỗi dịp lễ, Tết, Xuân về, nhất là đến dịp kỷ niệm Ngày Giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975) thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội lại “ra rả” những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc về khát vọng hòa bình, thống nhất cùng những nỗ lực, quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Cùng với đó là những “lý luận” ảo tưởng, hão huyền về “khôi phục” một chế độ đã qua hòng bôi đen sự thật, phá hoại khối đại đoàn kết, phá hoại chủ trương hòa hợp dân tộc. Trước những thủ đoạn, chiêu trò đó, chúng ta cần tiếp tục khẳng định:
     Một là, nước Việt Nam là một; dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn. Núi có thể mòn. Song chân lý đó không bao giờ thay đổi. Vì thế, dù với toan tính “chia để trị” hay bất cứ âm mưu phân hóa, chia rẽ nào của các thế lực xâm lược, thì mỗi người dân đất Việt cũng đều là “con Rồng cháu Tiên” - chung một Quốc Tổ Hùng Vương. Ngày Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức người Việt: “Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi”(1)... Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tiếp tục truyền thống và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 22/SL-CTN ngày 18/2/1946 về những ngày nghỉ Tết, kỷ niệm lịch sử và tôn giáo; trong đó, quy định công sở, viên chức được nghỉ ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch hằng năm. 
     Cả dân tộc có chung ngày Giỗ Tổ; đồng bào cả nước có chung tâm niệm về nguồn cội “con Rồng cháu Tiên”. Đây chính là nguồn mạch sâu thẳm tạo nên sức mạnh đoàn kết, cố kết cộng đồng trải dài từ quá khứ, nâng bước cho hiện tại, chắp cánh cho tương lai; là điểm tựa tinh thần, sức mạnh mềm để người Việt vượt qua mọi âm mưu thôn tính của các thế lực ngoại bang, giữ được ngôn ngữ, tâm hồn, phẩm cách của mình, bồi đắp một nền văn hóa đậm đà, đặc sắc, đa dạng trong thống nhất.
     Dù “năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc”(2), thế nên không một trở lực, thế lực nào có thể xuyên tạc, chia rẽ, phá hoại được sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc cùng chung một cội trên hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do, vì một đất nước Việt Nam thống nhất, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
     Hai là, vì nước Việt Nam là một, nên “đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta... Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta”(3). Cũng vì thế, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, nhưng đế quốc Mỹ đã phá hoại Hiệp định Genève 1954, từng bước can thiệp vào miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai để chia rẽ đồng bào và chia cắt đất nước ta, thì đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc là mục tiêu chính nghĩa trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ. Khát vọng thống nhất non sông ấy đã góp phần hun đúc ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam trên hành trình đi tới tương lai.
     Văn kiện Đảng qua các kỳ Đại hội và Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đều thể hiện rõ và nhất quán mục tiêu một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”. Vì thế, trong bất cứ bối cảnh và giai đoạn cách mạng nào, đồng bào và chiến sĩ ta không phân biệt vùng, miền, thành phần, tôn giáo, dân tộc… đều có chung quyền lợi và cả nghĩa vụ bảo vệ giang sơn mà các thế hệ tiền nhân gây dựng, trao truyền. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn khi nói chuyện với cán bộ thuộc Đại đoàn Quân Tiên Phong, ngày 19/9/1954 tại Đền Hùng: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
     Ba là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) để thực hiện khát vọng thống nhất non sông, hiện thực hóa tư tưởng, ý chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định thống nhất. Đồng bào Nam - Bắc nhất định sum họp một nhà”(4), chứ đó tuyệt đối không phải là “nội chiến”, càng không phải là “miền Bắc đánh chiếm miền Nam” hay “là cuộc chiến tranh ý thức hệ, huynh đệ tương tàn” như luận điệu phản động của các thế lực thù địch. Vì thế, hiểu đúng khát vọng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân về chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(5và “Nước Việt Nam ta nhất định phải thống nhất. Đồng bào Nam và Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà… Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi”(6cũng chính là hiểu đúng lịch sử dân tộc, hiểu đúng cuộc kháng chiến chính nghĩa của Nhân dân ta. 

 

      HÒA HỢP DÂN TỘC ĐỂ HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI PHỒN VINH, HẠNH PHÚC
     Thấm nhuần những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ, Chỉ có một ý chí: Quyết không chịu mất nước, Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”(7và vì “TỔ QUỐC TRÊN HẾT” ở mọi nơi và mọi lúc”(8), từ sau ngày 30/4/1975, trên cơ sở lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng, hòa hợp, hòa giải dân tộc luôn là một chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó, kiều bào ta định cư ở nước ngoài, không phân biệt ý thức hệ, xuất thân, kể cả những người còn định kiến, mặc cảm với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… cũng đã được tạo điều kiện để về thăm và góp sức xây dựng quê hương, đất nước.
     Chúng ta cần tiếp tục khẳng định rằng:
     Một là, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh “là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”(9).
     Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị khóa VII về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất cũng đã khẳng định “đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người trong nước và người định cư ở nước ngoài”. Việc thực hiện Nghị quyết này đã góp phần nhân nguồn sức mạnh của dân tộc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. 
     Việc triển khai đồng bộ Nghị quyết số 36-NQ/TW khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và sau đó là Chỉ thị số 45-CT/TW, tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán: người Việt Nam đang sinh sống, lao động, học tập ở nước ngoài là một “bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”; là minh chứng sinh động cho thấy nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được nhân lên gấp bội. 
     Vì thế, việc các kiều bào ta ở nước ngoài về nước thăm quê hương hay ở lại sinh sống và cùng góp sức xây dựng đất nước đều đáng trân trọng. Và cũng vì thế, khi chiến tranh đã lùi xa, khi khát vọng về một nước Việt Nam phát triển hùng cường, hạnh phúc đã trở thành ý chí và quyết tâm của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, thì những chiêu trò bịa đặt, bôi đen, xuyên tạc để kích động lòng thù hận, sự cố chấp... hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là những hành động đi ngược lại khát vọng của nhân dân, có tội với Tổ quốc và tương lai của dân tộc Việt Nam. 
     Hai là, Đảng và Nhà nước luôn trân trọng lòng yêu nước chân chính, tinh thần đoàn kết và sự đóng góp về mọi mặt của mỗi người dân Việt Nam dù đang sinh sống ở trong hay ngoài nước. Song, cũng kiên quyết xử lý nghiêm khắc đúng theo Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam đối với những cá nhân, tổ chức có hành động nhằm phá hoại chính sách hòa hợp dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây rối và cản trở quá trình phát triển của đất nước. Những hành vi đăng, phát tán thông tin nhằm gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân... đều là những thủ đoạn, việc làm sai trái, chỉ cốt gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 
     Vì thế, Luật An ninh mạng ra đời là hoàn toàn phù hợp và chính đáng, nhằm góp phần phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại các hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, chống Nhà nước; tuyên truyền phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kích động biểu tình, phá rối an ninh… Luật An ninh mạng ra đời là để góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những hành vi thù địch, phản động gây ảnh hưởng tới chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của đất nước Việt Nam, chứ không phải là “vi phạm nhân quyền” như những giọng điệu đã và đang cố tình xuyên tạc, bóp méo. 
     Ba là, ngày 30/4/1975 đã làm thay đổi vận mệnh của dân tộc Việt Nam. Dù có một bộ phận người ở phía bên kia chiến tuyến đã từng chọn con đường di tản, tha hương, song, “vết sẹo ly hương” đã được thời gian chữa lành bởi chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đại đoàn kết, hòa hợp, hòa giải dân tộc. Đã có nhiều kiều bào trở về Tổ quốc sinh sống hoặc góp sức xây dựng quê hương, đất nước. 
     Sau ngày 30/4/1975, cũng đã có rất nhiều cán binh của chế độ cũ lựa chọn ở lại Tổ quốc, tham gia học tập cải tạo, rồi sinh sống, làm ăn và phát triển tại quê hương. Có thể cuộc mưu sinh ban đầu ở thời “hậu chiến” khó khăn hơn so với cuộc sổng đủ đầy của họ trước đó khi được “tài trợ nhân đạo”, song tâm trí “những người ở lại” chắc chắn thanh thản hơn, bình an hơn mỗi độ Tết đến, Xuân về, mỗi dịp đất nước, quê hương, gia đình có lễ trọng... Bởi thế, tâm lý cực đoan, sự sân hận, hay “nỗi niềm tủi nhục”, nếu có, thì cũng chỉ là nhất thời, chắc chắn không phải không phải “truyền đời” và không thể “nuôi dưỡng” hòng “thổi bùng lên ngọn lửa trả thù” như những giọng điệu xuyên tạc, bôi đen, kích động của các phần tử cơ hội, phản động vẫn rêu rao! 
 
 
 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm hỏi nhân dân
tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên - Ảnh: TTXVN
 

      Có một thực tế là, một nước Việt Nam thống nhất ngày càng phát triển; ngày càng có vị thế trên trường quốc tế vẫn không làm cho một bộ phận nhỏ những người bất mãn, cố chấp luôn mộng hồi về “chế độ xưa”, ôm giữ sự bảo thủ và ích kỷ - không hề biết trân quý giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc. Cũng bởi thế mà họ lại vô tình hoặc cố ý “tiếp tay” cho những kẻ phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân; “tiếp tay” cho sự thù hận, ích kỷ, bẻ cong sự thật lịch sử. 

     Dù đã rời bỏ Tổ quốc sau ngày 30/4/1975 vì không chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; không thừa nhận, không tin theo con đường mà Đảng và Nhân dân Việt Nam lựa chọn, nhưng một bộ phận người mang dòng máu Việt, dù đang sinh sống ở hải ngoại, dù không thiếu thốn về vật chất, nhưng họ vẫn không chịu “cởi bỏ” tâm lý hằn học, hận thù. Bởi thế, cứ đến “mùa này” là họ lại rên rỉ tiếng kêu “phục quốc”; xuyên tạc, phủ nhận những quyết sách, nỗ lực của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị Việt Nam trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, hòa hợp dân tộc nói riêng... Dù thế nào thì đây cũng là những tiếng nói trái đạo lý, bởi nó reo rắc tâm lý bất an trong cộng đồng. Chúng ta kiên quyết đấu tranh, lên án và bác bỏ những việc mượn danh “yêu nước”, “dân chủ” hay “đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền” để bóp méo sự thật lịch sử, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc, về hòa hợp dân tộc.
     Chúng ta cần tiếp tục làm rõ và khẳng định, nhờ có truyền thống yêu nước và đoàn kết, đồng lòng mà 54 dân tộc anh em - cùng chung Quốc Tổ là Hùng Vương - đã vượt qua mọi gian lao, thử thách để chống chọi và chiến thắng được thiên tai, địch họa, dịch bệnh; không ngừng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… xây đắp non sông ngày càng giàu mạnh. Với đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng được bổ sung, hoàn thiện; với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt tôn giáo, giai tầng... sau 48 năm “non sông thu về một mối”, đại đa số “con Lạc cháu Hồng” đã và đang luôn kiên trung, tin tưởng, chung tay dựng xây một đất nước Việt Nam thống nhất ngày càng phát triển vững mạnh. 
     Với chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc trên tinh thần bao dung, nhân ái Hồ Chí Minh: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng của nó hẹp nhỏ”(10), nên “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”(11).
     Sự thật là, Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không chỉ bảo vệ được giang sơn, bờ cõi, thống nhất non sông, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, mà luôn đồng tâm chung sức xây dựng quê hương - đất nước ngày một đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Vì thế, những luận điệu lạc lõng, hằn học, ảo tưởng nhằm khơi lên hận thù, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, xuyên tạc chính sách hòa hợp dân tộc... không chỉ là những thù đoạn, hành động sai trái, thâm độc, mà còn là chống lại nhân dân, đi ngược lại những khát vọng thiêng liêng, chính đáng trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa!./.
___________________
(1) Bản ngọc phả viết thời Trần (năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601) sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng.
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.4, tr.280, 249.
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.623, 131.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.359-360.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.178-179.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.513.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.244.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.130.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.104.
Nguồn: tuyengiao.vn

Tin liên quan