Thông tin tuyên truyền, tài liệu sinh hoạt chi bộ

TIN TỔNG HỢP THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN THÁNG 3/2021.

02-03-2021 11:37


  ĐỊNH HƯỚNG TUYÊN TRUYỀN THÁNG 3/2021

       1. Tuyên truyền kết quả Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, những thành tựu sau 35 năm đổi mới; kết quả Đại hội Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lần thứ XVII; những thành tựu nổi bật của tỉnh, của đất nước trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội; kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị năm 2020 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2021.

2. Tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 ở các cấp theo tinh thần Chỉ thị số 03-CT/TU ngày 20/01/2021 và Kế hoạch số 11-KH/TU ngày 21/01/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Kế hoạch số 29-KH/ĐUK, ngày 23/02/2021 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối.

3. Tiếp tục tuyên truyền kết quả thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp và những mô hình, điển hình, gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực.

4. Tiếp tục tuyên truyền Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 09/12/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII về nhiệm vụ năm 2021; Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 21/01/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về các nhóm nhiệm vụ trọng tâm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện năm 2021; Nghị quyết số 30/NQ-HĐND, ngày 14/12/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh về mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch năm 2021, gắn với phương châm hành động năm 2021 là “Siết chặt kỷ cương, tăng ̣cường trách nhiệm, quyết liệt hành động, sáng tạo bứt phá”.

5. Tuyên truyền về chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển đảo; công tác phân giới, cắm mốc và quản lý biên giới đất liền trong tình hình mới. Tăng cường tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác, đấu tranh phản bác các tin đồn thất thiệt, thông tin xấu độc, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch gây hoang mang dư luận, làm mất an ninh trật tự. Nắm bắt, phản ánh và kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận xã hội.

6. Tuyên truyền các hoạt động xúc tiến thương mại, tạo môi trường thông thoáng cho các hoạt động xuất nhập khẩu, thương mại, du lịch, dịch vụ,... trong  bối cảnh cả nước và thế giới đang tích cực tổ chức các hoạt động phòng, chống Covid-19 trong trạng thái “bình thường mới”. Tiếp tục tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống buôn bán hàng cấm, hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ nhập khẩu trái phép qua biên giới;.... Đẩy mạnh tuyên truyền thông điệp “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và “Tự hào hàng Việt Nam”.

7. Tiếp tục tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển sản xuất nông nghiệp: Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày 25/11/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu trong lĩnh vực nông nghiệp, giai đoạn 2020-2030; Nghị quyết số 08/2019/NQ-HĐND, ngày 10/12/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh về chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2020-2025; Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP); các phương án ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai,... và công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông thôn mới năm 2021.

8. Tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện mục tiêu kép vừa bảo đảm phòng, chống Covid-19, vừa phát triển kinh tế - xã hội; các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19; thông tin, phản ánh đầy đủ về tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp tại một số tỉnh trong nước, trên thế giới để đề cao cảnh giác về nguy cơ dịch bệnh. Tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác an sinh xã hội, y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe nhân dân; công tác giáo dục và đào tạo, văn hóa, thể thao, du lịch; công tác cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí và công tác tiếp dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân;...

9. Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chào mừng các ngày lễ, ngày kỷ niệm trong tháng 3, trong đó trọng tâm là: Kỷ niệm 62 năm Ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng (03/3/1959-03/3/2021) 32 năm Ngày Biên phòng toàn dân (03/3/1989- 03/3/2021); 110 năm Ngày sinh đồng chí Lê Thanh Nghị (06/3/1911 - 06/3/2021); 90 năm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2021).

         

PHÁT TRIỂN VIỆT NAM: TẦM NHÌN, ĐỔI MỚI VÀ KHÁT VỌNG NĂM 2030-2045

 

TCCS - Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau 35 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Tuy nhiên, “đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện,… nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững”(1). Kết thúc năm 2020 và bước vào năm 2021, thực tiễn đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời; có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới, sáng tạo và phát triển ở nước ta.

   

Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương thăm tổ hợp Nhà máy sản xuất ô tô Vinfast,
thành phố Hải Phòng, ngày 09-01-2020. Ảnh: TTXVN

Định vị chiến lược quốc gia trong thế giới đương đại

Chúng ta đang sống và hành động trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, với tất cả sự phức tạp của thời cơ và nguy cơ đan xen, chuyển hóa khôn lường, đặt ra thách thức lớn, hoặc là tụt hậu tức là bị bỏ rơi hoặc là bứt lên ngang tầm thời cuộc, làm chủ vận mệnh của chính mình, mà một khi dừng lại hoặc đứng im cũng chính là tụt hậu. Một sự rung chuyển của thế giới lập tức gây chấn động tới mọi quốc gia, dân tộc toàn cầu. Tất cả phải được chủ động, tiên liệu để tìm đối sách cho phù hợp. Nếu không định vị được mình trong thế giới, trước hết là trong khu vực, thì nhất định sẽ bị động và cầm chắc việc đứng ngoài cuộc hội nhập toàn cầu.

Hơn nữa, ở khía cạnh khác, tưởng sống như trong một “thế giới phẳng”, nhưng chúng ta không ít lúc lại rơi vào vùng không phẳng. Sự không phẳng được hiện diện bằng sự phân biệt đối xử của các cường quốc lớn, các khu vực phát triển tự cho mình cái quyền chi phối các nước khác, bắt họ phải “quỳ gối” hoặc lâm vào vòng lệ thuộc; với tham vọng bá quyền luôn lăm le, xâm lấn các quốc gia, dân tộc khác. Nên đối với chúng ta, nguy cơ tụt hậu lại càng đe dọa khủng khiếp. Và, chính vì thế, hơn 20 năm trước, tháng 1-1994, Đảng ta tiên lượng và cả dân tộc ta đang nỗ lực không ngừng để vượt lên vùng không phẳng ấy. Tự mình phải vượt qua thách thức, quyết tâm trở nên phú cường và mạnh mẽ; đồng thời, không thể không vượt lên chính mình, để định vị chỗ đứng mới của đất nước. Đi theo cách cũ, kinh nghiệm cũ thì chỉ đi sau các quốc gia  - dân tộc khác mà thôi. Đó tiếp tục là một thách thức, với thách thức mới lại đang đến từ tương lai và cơ hội cũng song hành với thách thức; chỉ có nhìn như vậy, mới đủ thực lực để phát triển độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.

Chính vì thế, một cách tự nhiên, sự lựa chọn tất yếu của đổi mới chính trị trong công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, chính là một nội dung rất quan trọng của đổi mới hiện nay. Có thể nói, đây là làn sóng phát triển thứ tư trong lịch sử phát triển của đất nước, dưới ngọn cờ của Đảng. Từ khi Đảng ra đời ngày 3-2-1930 tới nay, nếu nhịp sóng thứ nhất, với 30 năm đầu từ 1930 - 1960, qua hai kỳ Đại hội của Đảng: Đại hội I (tháng 3-1935), Đại hội II (tháng 2-1951), chúng ta giành chính quyền, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, từng bước tiến hành cuộc cách mạng dân chủ; tới nhịp sóng thứ hai, với bốn kỳ Đại hội của Đảng, khoảng gần 30 năm từ 1960 - 1986, bắt đầu từ Đại hội III (tháng 9-1960), Đại hội IV (tháng 12-1976), Đại hội V (tháng 3-1982), chúng ta hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nhịp sóng thứ ba tròn 30 năm từ 1986 - 2016, tiến hành toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Dự báo nhịp sóng thứ tư sẽ tròn 30 năm từ 2016 - 2045, khi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tròn 100 năm. Có thể hình dung, nếu giai đoạn 30 năm đổi mới đầu tiên từ 1986 - 2015 là sự thức dậy về tư duy, đổi mới về cơ chế, chủ động trong hội nhập toàn cầu, thì giai đoạn 30 năm đổi mới tiếp theo tới năm 2045 sẽ được định hình bởi những cố gắng phi thường của cả dân tộc đột phá về đổi mới tầm nhìn chiến lược, trỗi dậy toàn diện, đồng bộ sức mạnh dân tộc, kết hợp sức mạnh thời đại xây dựng nền tảng cho một xã hội phồn vinh và hạnh phúc, với khát vọng đưa Việt Nam trở thành một quốc gia hùng cường, giữ vị thế xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.

Hiện nay, hơn bao giờ hết, con đường duy nhất đúng là, chúng ta chỉ phát triển toàn diện, bền vững, thì chúng ta mới có tiếng nói thực sự, khi bước chân nhân loại không chờ đợi sự do dự hay ngập ngừng của bất cứ ai, khi cuộc cạnh tranh toàn cầu luôn tiềm ẩn sự “mất còn” tức khắc, sự “chìm nổi” khó đoán trước về vị trí của bất cứ nước nào trong cuộc cạnh tranh gay gắt mang tính toàn cầu và không có bất cứ quốc gia, dân tộc nào là ngoại lệ. Bởi thế, chúng ta có thể bứt phá lên hay bị tụt hậu? mà khi tụt hậu tức là đứng ngoài “sân chơi” toàn cầu hóa, nếu không nói là vô hình trung rơi vào vòng lệ thuộc mới, là tự biến mình thành “sân sau” của người khác. Do đó, nếu chúng ta không định vị chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mình, nhất định sẽ khó tìm được chỗ đứng xứng đáng trên trường quốc tế và càng khó có cơ hội góp phần cùng nhân loại xây dựng thế giới. Đó là vận mệnh quốc gia, là danh dự của dân tộc! Xin nhắc lại, đứng trong thế giới, chúng ta phải vì thế giới và cho thế giới, đó là phương pháp tốt nhất để định vị đất nước.

Kinh nghiệm của thế giới hai thế kỷ qua cho thấy, thế giới càng toàn cầu hóa, thì vấn đề dân tộc đối với mỗi quốc gia càng nổi lên như một mệnh đề cấp thiết. Việc xử lý vấn đề dân tộc vì sự phát triển toàn cầu, chủ động tiên lượng và nắm lấy tổng thể sự vận động toàn cầu để giải quyết cụ thể, thiết thực những công việc của dân tộc đã và đang trở thành mệnh lệnh hành động song trùng một cách tự nhiên hiện nay.

Định vị chiến lược đất nước, tới lượt nó, không có con đường nào khác tốt hơn là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam chân chính, dưới ngọn cờ của Đảng, phải trở thành động lực căn bản, quan trọng đối với tiến trình phát triển của đất nước trong tương lai. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho chúng ta một bài học lớn, khi Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(2); vì thế, trong ba thập niên tới, vị thế của quốc gia - dân tộc Việt Nam ở đâu? Phải chăng nhìn tổng thể, trong 25 năm tới, vào năm 2045, trước mắt là năm 2030, với công cuộc không ngừng đổi mới, sáng tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự chủ, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; để trở thành một nước công nghiệp hiện đại và phát triển, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,... Định vị chính trị chiến lược đất nước hiện nay, hơn lúc nào hết, là xử lý hài hòa, mềm dẻo, quyền biến nhưng kiên quyết, rõ ràng và dứt khoát điều tối giản đó! Nói khái quát, đó là danh hiệu Việt Nam, bắt đầu từ chỗ đứng của Việt Nam trong thế giới. Đó là sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mang tầm chiến lược hiện nay.

Đổi mới, sáng tạo, phát triển, độc lập, mạnh mẽ, bền vững với khát vọng xây dựng thương hiệu quốc gia hùng cường 

Một cách tự nhiên, nếu xem cốt lõi của chính trị là lợi ích và quan hệ chính trị dù vi mô (cá nhân với cá nhân; cá nhân với tổ chức, đảng phái,...) hay vĩ mô (giai cấp, tầng lớp với nhau; các tổ chức chính trị với nhau; quốc gia, dân tộc với nhau; quốc gia với quốc tế,...) là xoay chung quanh vấn đề lợi ích, thì đâu là cái bất biến, cái khả biến của công việc đổi mới toàn diện, đồng bộ cần phải làm? Do vậy, dù muốn hay không, càng tiếp tục đổi mới, thực chất là trở lại nhận thức và hành động đúng quy luật vận động của đất nước một cách tổng thể, trước hết và trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề trung tâm là lợi ích chung một cách tổng hòa, cụ thể từ cá nhân, giai cấp, giai tầng,... tới quốc gia, dân tộc với các nước trên bình diện quốc tế mang tính thống nhất và đa dạng.


Giới thiệu công nghệ số Việt Nam trong gian hàng triển lãm công nghệ tại Internet Day 2020.  Ảnh: TTXVN

         Trước hết, tiếp tục đổi mới tư duy chính trị

Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, ông cha ta luôn lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu tối thượng trong mọi hành xử của mình, trước bất cứ ai, dù ở trong bất cứ cảnh huống nào. Lịch sử từng cho thấy, ai coi nhẹ, vương triều nào làm trái đi là tự rước lấy họa sát thân, rơi vào vòng tôi tớ, thậm chí rơi vào vòng nô lệ và tất sẽ bị diệt vong.

Trong thời đại ngày nay, giữa không gian toàn cầu hóa, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, hơn bao giờ hết, càng tỏa sáng trong ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm và hành động của mỗi đồng bào, tự nhiên như trời đất, như ruột thịt. Giang sơn, xã tắc mà ông cha ta để lại, dù tấm thân còn mất, đồng bào ta quyết không để mất một tấc núi sông. Vị thế dân tộc Việt Nam ta nối đời gây dựng, quyết không để mất độc lập, tự do; sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc không thể để bị chà đạp, không thể bị xâm chiếm. Mất đất, dù chỉ một hòn đảo, một tấc núi sông,... là nguy cơ có ngày mất nước, không thể coi thường. Một dân tộc phải trải qua hàng trăm cuộc chiến tranh chống quân xâm lược, ở mọi quy mô, đến từ các châu lục,... điều đó, đủ nói lên những giá trị cốt tử, vì nền độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà dân tộc Việt Nam đã đấu tranh, giành, giữ và cảnh giới bảo vệ kiên quyết, không nhượng bộ, nhưng quyền biến, mưu lược như thế nào!

Quốc gia độc lập, tự do, dưới ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, đó là điều linh thiêng bất biến, là linh hồn và danh dự hiện thực của Việt Nam trong định vị chính trị chiến lược đất nước hiện nay. Do đó, đổi mới tư duy, tìm tòi phương lược, hoạch định cơ chế, lộ trình phù hợp, giải quyết đúng đắn các quy luật xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất cả nhằm mục tiêu bảo vệ và phát triển lợi ích tối thượng của quốc gia - dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thế giới đương đại. Lợi ích chính trị của đất nước Việt Nam phải là hạt nhân, mà mọi sự đổi mới, dù ở phương diện nào, góc độ nào, mức độ tới đâu,... cũng đều xoay chung quanh nó, chứ tuyệt đối không phải ngược lại, càng không phải là một thứ gì khác. Bài học lớn sau 35 năm đổi mới cho thấy, đổi mới tư duy là nhân tố mở đường và quyết định cho những thay đổi căn bản trong phát triển kinh tế - xã hội. Cái quyết định nhất, có tính tiên quyết nhất, vẫn là bản lĩnh! Ở đó, không chỉ thể hiện lòng dũng cảm, bản lĩnh, mà là sự kết tinh cốt cách, khí phách của Việt Nam. Vì nền độc lập, tự do là lợi ích vô giá của cả dân tộc trong cuộc hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, thời cơ để phát triển cũng rất nhiều, nhưng nguy cơ tụt hậu, lệ thuộc càng không ít, nên chúng ta quyết không ảo tưởng trước những mỹ ngôn hào nhoáng của bất cứ ai; không thể lóa mắt trước những lợi ích nhất thời, nhỏ hẹp vô hình xâm hại quốc gia, mà bất cứ ai hứa hẹn; càng không thể cả tin vào những mỹ từ trừu tượng,... nào đó, mà coi nhẹ bổn phận của mình, sao nhãng lợi ích của quốc gia - dân tộc của nhân dân. Đó là thước đo bản lĩnh cầm quyền của Đảng.

Thứ hai, trên phương diện tổ chức thực tiễn

Nhìn từ lịch sử cách mạng của dân tộc cho thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc của chúng ta là cụ thể; sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng và quyền độc lập dân tộc là vô giá. Làm trái đi, là vong thân, là hại quốc, là phụ lại lòng tin và sự ủy thác của nhân dân. Chúng ta quyết bảo vệ đất nước độc lập, tự do, vì nền hòa bình của Tổ quốc; trước hết, bằng phương pháp hòa bình, với phương châm “không gây thù oán với một ai”, vì một khu vực và một thế giới hòa bình, văn minh, thịnh vượng. Đó là cái bất biến, mà chúng ta cần nắm chắc, để chủ động hành xử trước mọi sự đổi thay của thời cuộc, của thế giới trong lộ trình đổi mới toàn diện, đồng bộ, vì chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Theo đó, một cách tự nhiên, khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ hiện nay, không gì khác ngoài mục tiêu vì sự phát triển độc lập, mạnh mẽ và bền vững của đất nước. Đó là cương lĩnh hành động, là thước đo hiệu quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới, nhằm kiến tạo thương hiệu quốc gia là thước đo của đổi mới và ổn định. Nói cách khác, không thể có bất cứ ổn định chắc chắn nào, nếu không vì sự phát triển; và, đến lượt nó, phát triển là đẳng cấp của ổn định! Vì vậy, mà ngày nay chúng ta phải lấy sự phát triển của đất nước làm mục tiêu, động lực cho sự ổn định cao hơn và bền vững. Đó là đẳng cấp mới về “đổi mới, ổn định và phát triển”, là nhân tố làm nên hệ giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam hùng cường; đồng thời, phải chủ động đón, nắm bắt thời cơ phát triển. Hơn bao giờ hết, thời cơ chính là lực lượng, nên nhất định phải chủ động nắm lấy một cách kiên quyết và hiệu quả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để thực hiện công cuộc đổi mới, bứt phá, góp phần mang tới phồn vinh cho Tổ quốc. Hoặc là bây giờ, hoặc không bao giờ, trong tầm nhìn trăm năm tới. Đó không chỉ là tầm nhìn chiến lược, mà còn là trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng của Việt Nam trong thế kỷ mới.

           

Dây chuyền sản xuất các linh kiện điện tử tại Công ty TNHH Doosung Tech Viet Nam
 tại Khu công nghiệp Lương Sơn (Hòa Bình). Ảnh: TTXVN

          Phát triển giá trị quốc gia: Tự do  - Dân chủ - Pháp quyền - Đạo đức - Phát triển - Hội tụ, kết tinh tầm nhìn chính trị, bản lĩnh, sức mạnh và uy tín quốc gia trong thời đại ngày nay

Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, chúng ta hiểu rằng: Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến; cũng phải coi trọng ngang nhau, đó là kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Đặc biệt, 35 năm đổi mới toàn diện, đồng bộ, chúng ta càng hết sức coi trọng việc xử lý công việc đó. Nhớ lại, trước thềm công cuộc đổi mới (năm 1986), đất nước ta lâm vào khủng hoảng, kinh tế đình đốn, lạm phát phi mã tới 3 con số, bị bao vây cấm vận,... Sự khủng hoảng kinh tế đe dọa trực tiếp tới chế độ. Đổi mới kinh tế hay chính trị, xã hội hay văn hóa,... trong “sợi dây xích” chỉnh thể đất nước? Sự lựa chọn khởi đầu công cuộc đổi mới dẫn tới không thể không đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Đó là sự lựa chọn đúng đắn trong việc giải quyết tổng thể tình trạng đất nước lúc ấy, là bắt đầu từ giải quyết tình trạng kinh tế khủng hoảng đe dọa số phận đất nước. Và, sự thật, hơn lúc nào hết, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, nên giải quyết vấn đề chính trị từ nền tảng của nó, chính là kinh tế; đó chính là xử lý những vấn đề về chính trị một cách một cách khoa học. Vì vậy, tầm nhìn chính trị phải được đặt trên kinh nghiệm lịch sử, để tiếp tục làm nên nhịp bước cùng thời đại, thì nhất định phải được dẫn dắt bởi tầm nhìn chính trị chiến lược. Nếu lịch sử định vị chúng ta là ai? ở đâu?... thì tầm nhìn chiến lược chính trị cho chúng ta lời đáp là chúng ta đi tới đâu? và đi như thế nào? Tầm nhìn chính trị lúc này là vị thế chính trị, lực lượng chính trị, cũng chính là sức mạnh quốc gia - dân tộc Việt Nam, chứ không đơn thuần chỉ là kinh nghiệm.

Hơn 75 năm qua dưới chế độ mới, khởi đầu từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhất là trong 35 năm đổi mới, Việt Nam đã và đang tiến những bước dài trong lịch sử của mình để hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhưng nhìn tổng thể, trước yêu cầu phát triển mới giữa điều kiện toàn cầu hóa, trong rất nhiều vấn đề, nổi bật lên 5 mệnh đề lớn trong công cuộc đổi mới hiện nay, cần tiếp tục phải trả lời.

Một là tự do. Đất nước độc lập, nhưng nhân dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói. Vì thế, nếu gìn giữ giá trị toàn vẹn của độc lập là một công việc khó khăn, thì phát triển tự do là một chân trời lớn, nhưng tất yếu, đầy khó khăn và cả chông gai, song chúng ta quyết đi tới, vì sự bảo đảm nhu cầu tự nhiên và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đó chính là tiền đề của nền dân chủ chân chính.

 Hai là dân chủ. Hơn 75 năm qua, mệnh đề đó làm nên tiêu ngữ của thể chế Việt Nam dân chủ cộng hòa, là mục tiêu của thể chế Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng dân chủ từ nghĩa nguyên khai “Đê-mốt Kra-tốt” (chính quyền của nhân dân), tới thực tiễn vẫn đang là một trong những mệnh đề lớn nhất, cần nỗ lực tiến tới trong mục tiêu là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, dưới chế độ chính trị của Nhà nước ta. Dân chủ là việc trước hết, là mục tiêu, là động lực phát triển. Dân là gốc của nước.  

Ba là pháp quyền. Dân chủ phải được bảo đảm bằng pháp quyền; đó là bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, khi lấy pháp luật làm thượng tôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(3), nên không có pháp quyền, thì không thể nói tới dân chủ hay tự do chân chính nào. Đó là thách thức và chính là cơ hội đối với chúng ta.

Bốn là đạo đức. “Quốc pháp vô thân”, “quốc pháp thượng tôn”,... Kinh nghiệm lịch sử đã và đang cho chúng ta thấy, không một thể chế chính trị nào, có thể vận hành thành công trên một nền tảng đạo đức không tương dung. Khi mà chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, dù dưới sự dẫn dắt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề đạo đức vẫn đang trở thành vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay; cả ở tầm vĩ mô tới mức độ vi mô, cả xã hội tới mỗi cá nhân, không kém sự khắc nghiệt, thăng trầm của chính sự phát triển kinh tế,... cần phải xây dựng và được thực thi. Sự băng hoại về đạo đức nhất định dẫn tới băng hoại về chính trị; vì thế mà quyền lực nhân dân, nếu giao cho những kẻ vô đạo đức, thì nguyên vẹn là sự tàn bạo. Đó là phản văn hóa! Vì, chính trị lúc này, hơn lúc nào hết, là “Thanh khiết từ to đến nhỏ”(4), như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.  

Năm là phát triển. Đó là thước đo sự tiến bộ xã hội văn minh và hiện đại. Một đất nước Việt Nam truyền thống và hiện đại, hài hòa và khoan dung, dân chủ và kỷ cương, thủy chung và minh bạch, bản sắc và hội nhập, độc lập và hòa mục,... là những phẩm chất quan trọng mà chúng ta cần hướng tới, để xây dựng đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là con đường phát triển tất yếu của dân tộc, phù hợp với bước đi của thế giới. Vấn đề thành bại nằm ở chỗ, phải tiên lượng, tính toán và hoạch định về chiến lược sao cho tương thích, khả thi. Thiếu những vấn đề cốt tử đó, chúng ta khó có thể xây dựng được tầm nhìn chính trị xa, rộng; từ đó, mới có khả năng đưa ra những quyết sách chính trị đúng đắn, phù hợp với thời cuộc.

Đổi mới mối quan hệ giữa tầm nhìn chiến lược với quyết sách sách lược mới hiện nay

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, sự phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, không phải là một cuộc duyệt binh, mà trái lại, là một cuộc cạnh tranh, bứt phá khốc liệt, thậm chí càng gần đây, dù dưới hình thức này hay hình thức khác, sự áp đặt và nô lệ trong thế “quần ngư tranh thực”, là “mạnh được yếu thua”, thậm chí “cá lớn nuốt cá bé”,... Qua 35 năm đổi mới, chúng ta càng thấm thía, khi không có mô hình tiên nghiệm nào cho tất cả các quốc gia, dân tộc trong cuộc cạnh tranh đó, càng khó có sự “tất cả đều thắng” một cách chung chung, ảo tưởng xa vời, nếu nhìn từ tầm chỉnh thể có tính hệ thống.

Vì vậy mà chưa khi nào như hiện nay, kinh nghiệm lịch sử có vai trò quan trọng; nhưng nó chỉ trở nên hết sức quý giá, nếu được dẫn dắt bởi tầm nhìn viễn kiến mang tầm chính trị chiến lược, để đi tới tương lai; ngược lại, sẽ bị chính nó kìm hãm và trói buộc. Sự thành công ở tầm nhìn chính trị chiến lược của chúng ta sau 35 năm đổi mới, đến các quốc gia phát triển hùng cường trong thế kỷ XX và những thập niên đầu của thế kỷ XXI cho thấy, suy cho cùng, là kết quả tự nhiên của sự thắng lợi về bài học giải quyết những công việc quốc gia - dân tộc được định hướng, bởi tầm nhìn chính trị thực tiễn. Và cũng chính vì vậy, sau  35 năm, chúng ta không chỉ tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ mạnh mẽ hơn, mà là đổi mới khác trước, với nội hàm và cách thức rất mới, vì chủ nghĩa xã hội.

Nói cụ thể, mối quan hệ giữa tầm nhìn chiến lược và quyết sách chiến lược, chưa khi nào như hiện nay, lại là đòi hỏi cần thiết và cấp bách đối với chúng ta đến như vậy. Đó chính là quá trình xử lý sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc toàn cầu tổng thể với giải quyết một cách thật chủ động, năng động, thiết thực vấn đề địa vị, sức mạnh của đất nước độc lập và tự chủ. Vấn đề thời và thế là vấn đề chung, nhưng sự thành hay bại lại tùy thuộc vào phương lược xử lý riêng của chúng ta. Đặc biệt, trong  một “thế giới phẳng” và không phẳng, khi thời cơ và thời gian trở thành lực lượng, thì vấn đề xác lập tầm nhìn toàn cục, bao quát tổng thể để chủ động, hành động một cách kiên quyết và kịp thời, với phương lược riêng, lại càng trở nên vấn đề có ý nghĩa thành bại, sống còn; nghĩa là, hoặc là bây giờ hoặc là không bao giờ!


Cán bộ chiến sĩ Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân trong buổi huấn luyện đêm. Ảnh: TTXVN

Có thể nói rằng, vấn đề nổi lên có tính bước ngoặt, chuyển giai đoạn, là cần vạch rõ sao cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thấy rằng, nếu đổi mới 35 năm qua từ 1986  - 2021 là bằng đường lối đổi mới đưa nước ta từ một nước nghèo, khủng hoảng, kém phát triển thành một nước ổn định chính trị  - xã hội và phát triển trung bình, có vị thế lớn trên thế giới, thì đổi mới nhịp sóng thứ tư, từ 2015 trở đi là đổi mới, sáng tạo sau 2015, với tên gọi là đổi mới thời kỳ 4.0, bằng đường lối đổi mới phát triển cơ bản, để đưa nước ta từ nước phát triển trung bình thấp thành nước phát triển có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI, tức từ 20 đến 25 năm tới! Mâu thuẫn thật sự gay gắt bậc nhất hiện nay là giữa tiếp tục tụt hậu, phát triển chậm chạp, rơi vào bẫy thu nhập trung bình; sa lầy vào tham nhũng, lãng phí, ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề; hóa giải các thách thức, mối đe dọa đối với chủ quyền, quyền chủ quyền, khả năng giữ vững và phát triển các cục diện, vị thế có lợi cho nước ta trên trường quốc tế, với yêu cầu thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước phát triển cao, vững mạnh,... Vì thế, không có cách nào khác là phải cải cách, đổi mới mạnh mẽ, sáng tạo hơn nữa, với khát vọng trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ tới, với một nhà nước thực sự mang tầm kiến tạo, liêm chính, pháp quyền, vững mạnh, giữ vững độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn, thống nhất lãnh thổ quốc gia, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Thời cơ đối với một đời người là rất quý, huống chi vận hội đối với cả một dân tộc. Ở đây, nguyên tắc “Dĩ bất biến ứng vạn biến” luôn phải được giữ vững. Đó chính là lẽ “bất biến” vậy, bởi lẽ nếu không có độc lập dân tộc và tự do của nhân dân, thì chúng ta không có gì hơn; tầm nhìn xa hay ngắn, nằm ở chính chỗ này. Muốn làm nên sự nghiệp lớn, thì phải bắt đầu từ việc nhỏ, thật “cẩn tắc vô ưu”, cần cầm vững cái bất biến một cách thật khôn khéo, quyết không nhân nhượng, càng không thể lùi bước! Trong tình hình chính trị quốc tế hiện nay, càng không thể là lối xử thế giản đơn “lớn trọng bé khinh”, “khi tả khi hữu”,... vì số phận quốc gia - dân tộc chính là số phận của mỗi con người, và nó phải trở thành mệnh đề bất biến, mang tính nguyên tắc. Đó chính là mối quan hệ giữa tầm nhìn chiến lược với quyết sách cụ thể trong chiến lược phát triển đất nước hùng cường, mạnh mẽ và bền vững. 

Do đó, hơn bao giờ hết, vấn đề bản lĩnh chính trị quốc gia, định vị tập trung ở bản lĩnh chính trị, văn hóa chính trị của đội ngũ lãnh đạo quốc gia, giữ vai trò tiên phong và cực kỳ quan trọng. Nó là sự kết tinh và hội tụ ở đó không chỉ trách nhiệm chính trị, trí tuệ, sự tinh tế, tinh thần dân tộc, mà thấm đẫm cả lương tri, sự khoan dung và chủ nghĩa nhân văn, mang hồn cốt, tinh hoa, khí phách của văn hóa truyền thống và hiện đại của Việt Nam trong tầm nhìn toàn cầu, mà hạt nhân trung tâm là lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết, dưới ngọn cờ của Đảng.

Để thực thi chiến lược phát triển đất nước trong tầm nhìn năm 2030 và tới năm 2045, dưới ngọn cờ của Đảng, từ toàn bộ sự kiến giải trên, có thể gói trọn trong 45 chữ về tầm nhìn chính trị chiến lược sau đây là: Xác lập tầm nhìn, định vị chiến lược, khát vọng phát triển đất nước hùng cường, bền vững; bảo vệ độc lập, tự chủ, thống nhất quốc gia; hòa mục, hội nhập quốc tế; xây dựng Đảng dẫn dắt dân tộc tiến cùng nhân loại. Và, để thực thi nó, cần một triết lý văn hóa của sự phát triển mạnh mẽ và bền vững, với 16 chữ, phải được bồi đắp và lan tỏa, đó là Quốc gia tự tôn - Mỗi người tự trọng - Dân tộc tự cường  - Tổ quốc phồn vinh! Tất cả nhằm mục tiêu xây dựng nước Việt Nam, với phương châm “Độc lập, thống nhất, dân chủ, công nghiệp, hiện đại, phồn vinh, văn hiến, giữ vị thế và uy tín, xứng đáng trên trường quốc tế”. Điều này mới thật sự cần thiết trong tiến trình tiếp tục đổi mới, phát triển độc lập, sáng tạo cho chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay. Đó chính là tầm nhìn chiến lược, quyết sách kiên định kết tinh phẩm giá, cốt cách và cương lĩnh hành động đổi mới của dân tộc ta, một cách kiên định, sáng tạo và tràn đầy khát vọng vì một Việt Nam hùng cường, trong nửa đầu thế kỷ XXI./.

-------------------------------------

(1)  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016,  tr. 60, 65
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 511
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 473
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 75

Nguồn:https://www.tapchicongsan.org.vn  

QUỐC HỘI KHÓA XIV: GIẢI QUYẾT KỊP THỜI  
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH TRONG THỰC TIỄN

 

Bước sang năm 2021, Quốc hội khóa XIV đã đi gần hết chặng đường của nhiệm kỳ 2016-2021. Nhìn lại nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV cho thấy Quốc hội đã có những bước chuyển biến rõ rệt, đổi mới, hiệu quả, niềm tin của Nhân dân được nâng cao. Những kinh nghiệm, kết quả hoạt động của Quốc hội khóa XIV là nền móng quan trọng, vững chắc để Quốc hội khóa XV kế thừa và phát triển.

Quốc hội có 03 chức năng chính được Hiến pháp ghi nhận đó là lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, đặc biệt là năm 2020, đã cho thấy Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước không chỉ đúng, trúng mà còn rất kịp thời, giải quyết được những vấn đề đặt ra trong thực tiễn cuộc sống. Những quyết sách của Quốc hội đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng, mong muốn của Nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc, từ yêu cầu phát triển của đất nước, tạo nên những chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội.

 

Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua nhiều nội dung quan trọng
 tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV

 Trong giai đoạn 5 năm qua, Quốc hội đã xem xét, quyết định nhiều quyết sách quan trọng, có tác động, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, gắn với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh, trong đó có những vấn đề mới, khó, phức tạp, chưa có tiền lệ. Quốc hội đã quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020 và hằng năm, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, hệ thống kế hoạch trong lĩnh vực tài chính, ngân sách như: Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, kế hoạch tài chính - ngân sách Nhà nước 03 năm quốc gia, dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước hằng năm;... Những nội dung này nhằm bảo đảm tính tổng thể, có sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa yêu cầu nhiệm vụ với nguồn lực thực hiện. Đặc biệt, kế hoạch đầu tư công trung hạn và kế hoạch tài chính 5 năm giai đoạn 2016-2020 lần đầu tiên được thông qua, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất cả trong ngắn hạn và trung hạn đối với lĩnh vực tài chính, ngân sách, hướng tới việc huy động và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, bảo đảm an toàn nợ công, tính bền vững của ngân sách. Các mục tiêu, chỉ tiêu, định hướng, chính sách tiền tệ và tài khoá được xem xét thận trọng, linh hoạt, bảo đảm ứng phó kịp thời, góp phần hạn chế các tác động bất lợi, duy trì, phục hồi các hoạt động sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp, đặc biệt do ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, dịch bệnh trong năm 2020, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã kịp thời quyết định mới hoặc điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với yêu cầu tại từng thời điểm, nhất là các vấn đề kinh tế - xã hội “nóng”, nổi bật, mới phát sinh. Có thể kể đến như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác; chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách Nhà nước; cho kéo dài thời kỳ ổn định ngân sách Nhà nước giai đoạn 2017-2020 sang năm 2021; lùi thời gian ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên sang năm 2021 để áp dụng cho thời kỳ ổn định ngân sách mới; chưa thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và lương hưu từ ngày 01/7/2020. Đặc biệt vào tháng 4/2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng toàn diện đến nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nước ta, hàng triệu người lao động và các đối tượng yếu thế khác chịu ảnh hưởng nặng nề, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức phiên họp bất thường cho ý kiến về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống tối thiểu của một bộ phận người dân trong tình hình sản xuất, lao động bị hạn chế, làm căn cứ để Chính phủ xem xét, ban hành Nghị quyết.

 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên bất thường để xem xét, cho ý kiến về các biện pháp hỗ trợ
người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19theo đề nghị của Chính phủ

Trên cơ sở thảo luận kỹ lưỡng, cân nhắc thận trọng, khẳng định tính đúng đắn, sự cần thiết, Quốc hội đã quyết định chủ trương đầu tư một số dự án, công trình quan trọng quốc gia như: đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành; xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020; quyết định dừng thực hiện chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

Quốc hội cũng đã phê duyệt Đề án tổng thể và chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, đây là những quyết sách đặc biệt quan trọng, đồng bộ, toàn diện, thúc đẩy vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát huy nội lực, phát triển bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc trong tình hình mới.

 

Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê duyệt Đề án tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030

 

Để triển khai chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, góp phần tinh gọn tổ chức bộ máy, phát huy tiềm năng, lợi thế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã xem xét, quyết định thành lập, nhập, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tại 23 tỉnh, thành phố và  sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tại 43 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Ngoài những vấn đề nêu trên, trong giai đoạn này Quốc hội cũng đã ban hành nhiều quyết định về công tác nhân sự trong đó có việc cho thôi hoặc tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đối với một số trường hợp bị thi hành kỷ luật hoặc có vi phạm bị khởi tố bị can, bắt tạm giam phục vụ công tác điều tra. Những quyết định về công tác nhân sự được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành một cách chặt chẽ, đúng trình tự, thủ tục luật định, thể hiện sự nghiêm minh, có sự phối hợp chặt chẽ trong quy trình công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước và tạo sự đồng thuận cao, được Nhân dân và cử tri ủng hộ.

Có được những kết quả nổi bật này trước hết là nhờ quán triệt sâu sắc, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, vì lợi ích của đất nước, của Nhân dân là nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội là cơ sở quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động Quốc hội, tạo không khí dân chủ và phát huy trí tuệ của đại biểu. Kế thừa, phát huy các thành tựu, bài học kinh nghiệm qua 75 năm Quốc hội Việt Nam, Quốc hội khóa XIV tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết, tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động, không ngừng cải tiến, đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.

Những quyết sách của Quốc hội đều phản ánh rõ tư tưởng lấy dân làm gốc, gần dân, hiểu dân, thân dân; lắng nghe Nhân dân, phục vụ Nhân dân. Đây cũng là yêu cầu hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội nhằm hoàn thành trọng trách mà Nhân dân ủy thác.

Dẫu cho việc quyết định các vấn đề quan trọng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như còn có nội dung còn chưa bảo đảm tiến độ về thời gian, gây khó khăn cho các cơ quan thẩm tra; đại biểu Quốc hội có lúc chưa được cung cấp thông tin đầy đủ, thiếu thời gian nghiên cứu chuyên sâu; chưa có quy định cụ thể về những tiêu chí, nội dung thuộc nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhiều chỉ tiêu mang tính định hướng, khó phân định những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội hoặc giao Chính phủ, chưa có quy định phân định các trường hợp được thực hiện điều chỉnh mục tiêu, chỉ tiêu trong một số tình huống khi tình hình kinh tế - xã hội có biến động lớn....Nhưng những vấn đề này đều được Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chỉ ra trong các báo cáo nội dung cụ thể cũng như báo cáo công tác. Điều này cho thấy sự chủ động đánh giá, rút kinh nghiệm và đề xuất giải pháp khắc phục, cải tiến, nâng cao chất lượng. Đây sẽ là những bài học kinh nghiệm quý báu cho Quốc hội khóa sau./.

Nguồn:http://quochoi.vn  

 

 

NHIỆM VỤ CỦA THANH NIÊN
TRONG THỜI KỲ MỚI  

 

 

Từ ngày 20 - 26/3/1931, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai đã bàn về công tác thanh niên và quyết định các cấp ủy phải cử ủy viên phụ trách công tác đoàn. Theo đề nghị của Ban Bí thư Trung ương Đoàn, được sự đồng ý của Bộ Chính trị và Bác Hồ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đoàn (tháng 3/1961) đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 làm ngày kỷ niệm thành lập Đoàn hằng năm. Qua các thời kỳ cách mạng, những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã lập nên những chiến công xuất sắc và trưởng thành vượt bậc. Trong thời kỳ mới, thanh niên Việt Nam phấn đấu trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao với những nhiệm vụ được xác định như sau:

Một là, thanh niên có nhiệm vụ ra sức học tập, đi đầu trong xã hội học tập

- Tích cực học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng: học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Tích cực học tập kiến thức, không ngừng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn khoa học kĩ thuật và tay nghề: chủ động và tự giác học nghề. Tiếp cận và làm chủ kiến thức khoa học và công nghệ tiên tiến. Học quản lý, nắm vững khoa học và nghệ thuật quản lý.

- Tự giác tham gia học tập, đổi mới phương pháp học tập theo hướng tích cực, giúp đỡ nhau học tập, học thực chất, khắc phục tâm lý “chạy theo bằng cấp”.

- Chống các hiện tượng tiêu cực trong học đường: chạy điểm, coi cóp, gian lận.

Hai là, thanh niên có nhiệm vụ lao động tạo lập cuộc sống, tham gia phát triển kinh tế, xã hội

- Mỗi thanh niên cần chấp hành tốt Luật Lao động. Có nhận thức đúng về lao động và nghĩa vụ tham gia phát triển kinh tế.

- Thực hiện tốt các phong trào, chương trình: “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Thanh niên khởi nghiệp” do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động.

- Đi đầu trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, xây dựng nông thôn mới.

- Tiếp cận nhanh chóng tri thức và công nghệ mới để đạt hiệu quả, năng suất lao động cao; tham gia đổi mới cơ chế và chính sách, phát triển nguồn nhân lực,…

Ba là, thanh niên với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

- Thực hiện tốt phong trào “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động.

- Thực hiện tốt Luật Nghĩa vụ quân sự, tham gia dân quân tự vệ, có ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ đất nước.

- Tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; đội dân quân, an ninh tự quản, các đội thanh niên tình nguyện giữ gìn trật tự an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông,…

- Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, tham gia làm tốt công tác tuyển quân, nhập ngũ, thực hiện tốt công tác “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”,…

Bốn là, thanh niên tham gia xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

- Nhận thức đúng về văn hóa và yêu cầu của việc xây dựng nền văn hóa trong thời kỳ đổi mới cần tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, thực hiện tốt nguyên tắc “Hội nhập nhưng không hòa tan”.

- Tham gia xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh: sống chan hòa, đoàn kết với mọi người trong tập thể, trong gia đình; tôn trọng và có ý thức giúp đỡ người khác, có trách nhiệm xây dựng bầu không khí tốt đẹp trong cộng đồng.

- Tham gia phát triển văn hóa cộng đồng, “Văn minh công sở”: tôn trọng các quy tắc ứng xử trong xã hội, trong thôn bản, trong cơ quan và với đồng nghiệp, với các thành viên trong gia đình.

- Đi đầu chống các tệ nạn xã hội: tham gia tuyên truyền phòng, chống các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực gia đình…

Năm là, thanh niên tham gia xây dựng và bảo vệ hệ thống chính trị

- Tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng: phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; tuyên truyền đường lối, nghị quyết của Đảng, ngăn ngừa các hiện tượng tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng; đóng góp ý kiến phê bình đảng viên và các tổ chức đảng.

- Tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền: đi đầu thực hiện các chính sách của Nhà nước và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của chính quyền địa phương; xung kích vào những nơi khó khăn, gian khổ để cống hiến và trưởng thành, tình nguyện với cuộc sống cộng đồng vì sự bình đẳng xã hội. 

- Tham gia xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: thực hiện tốt tinh thần đoàn kết toàn dân, tham gia vào các hoạt động vận động xã hội ủng hộ người nghèo, công tác nhân đạo, từ thiện,…

Sáu là, thanh niên tham gia xây dựng nếp sống văn minh, đời sống cộng đồng tốt đẹp

- Nắm vững và nghiêm chỉnh chấp hành Luật Hôn nhân và gia đình: thực hiện tốt các điều khoản trong Luật Hôn nhân và gia đình, không gây bạo lực trong gia đình, tôn trọng quyền bình đẳng giới và quyền bình đẳng của các thành viên trong gia đình, chống gia trưởng, trọng nam khinh nữ, tảo hôn, bắt vợ, ép gả chồng,…

- Đi đầu trong cuộc vận động nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang: thực hiện tổ chức việc cưới, việc tang gọn nhẹ, tiết kiệm, chống các hiện tượng mê tín dị đoan, các hủ tục lạc hậu vi phạm pháp luật,…

- Xây dựng cho mình nếp sống lành mạnh, giản dị, tiết kiệm, chung thực, thật thà, chân tình với mọi người, có tinh thần tương thân, tương ái đồng đội, đồng nghiệp.

- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, nhân đạo: vận động tài trợ xã hội, hiến máu nhân đạo, giúp đỡ người nghèo, người già cô đơn, gia đình chính sách…

Bảy là, thanh niên tham gia hội nhập quốc tế

- Phải có bản lĩnh chính trị, tự hào dân tộc, tin tưởng vào đường lối của Đảng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa,…

- Tích cực học tập đi trước đón đầu các ngành khoa học kỹ thuật và công nghệ mũi nhọn, nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ.

- Có sức khỏe thể chất và tinh thần tốt để hội nhập: rèn luyện sức khỏe, sống lành mạnh, tinh thần thoải mái không vụ lợi, bon chen, ích kỷ, hẹp hòi.

- Ý thức đầy đủ về hội nhập văn hóa: cảnh giác với các loại và các dòng văn hóa có tính chất độc hại; chống các luận điệu tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước ta.

- Có kiến thức, hiểu biết về những vấn đề chung của nhân loại: nắm vững ngoại ngữ, tin học, khoa học công nghệ, nhân văn, văn hóa, văn minh nhân loại để có bản lĩnh hội nhập vững hơn trong một thế giới đa dạng và luôn biến động./.

 

Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lạng Sơn (Bản tin thông báo nội bộ số 3/2021)

Tin liên quan